QUYỂN 98
Quyển này có một chương Pháp diệt.
98. CHƯƠNG PHÁP DIỆT
98.1 LỜI DẪN
Trộm nghĩ: Chính pháp tượng pháp đã qua, giáo pháp chuyển sang thời mạt. Bởi người có tà chính, nên pháp cũng có lúc suy vi. Có người nương vào chân để tạo giả, hoặc khoác điều giả để loạn lẽ chân. Hoặc vay mượn văn chương, ý lời đều thiển cận; nhưng ngọc đá thật hư không thể nào lẫn lộn. Lại do thói đời bạc bẽo, tâm người đổi thay, ôm lòng vọng tưởng, chỉ tạo những nghiệp quấy. Nếu ba độc tăng trưởng thì chiêu lấy quả khổ trong bốn đường ác. Vì thế con người mãi sống trong cảnh tăm tối, hoàn toàn không nghĩ đến ngày tươi sáng. Lo tham đắm sáu trần, mà chẳng biết năm dục theo sau. Danh lợi đã vương thì nhân ngã càng lớn, dẫn đến kết bè đảng hung ác, rồi mặc sức nổi gió tà, luôn gièm pha những người thuần chính. Do đó giáo pháp lưu truyền đến Trung Hoa hơn sáu trăm năm mà đã ba lần bị các đế vương bạo ngược hủy diệt, tai họa ập đến không kịp trở tay, nhất định phải học theo các bậc tiền hiền. Nếu để tội lỗi thành hình thì thiên hạ sẽ cười chê.
Than ôi! Nghiệp báo đời sau thật đau đớn thay. Bởi do ít học buộc ràng, nên khi được làm thầy tâm thường độc đoán, giáo pháp cũng theo đó mà ẩn mất tai họa sẽ ập đến thân. Nếu xem đọc tám tạng, tổng hợp văn nghĩa rõ ràng; suy cứu chín thức, biết đươc tình mê trí ngộ. Như thế sẽ có lúc phá trừ ngũ ế tôi tăm, có ngày tam minh sẽ được sáng rỡ.
98.2. NGŨ TRƯỢC
Luận Địa trì ghi: “Năm trược: mạng trược, chúng sinh trược, phiền não trược, kiến trược, kiếp trược.
– Đời nay thọ mạng con người ngắn ngủi, dài nhất chỉ được trăm tuổi, nên gọi là mạng trược.
– Nếu các chúng sinh không kính cha mẹ, sa-môn, bà-la môn và các bậc tôn trưởng họ hàng, không học nghĩa lí, không làm việc phải làm, không sợ quả báo ác nghiệp của đời này đời sau, không tu trí tuệ, bố thí, không tạo các công đức, không tu pháp bát quan trai, không giữ gìn cấm giới, đó là chúng sinh trược.
– Nếu các chúng sinh tăng trưởng phi pháp tham, cung cấp đao kiếm, gậy gộc, binh khí cho người, gây ra tranh cãi, đấu tranh, dua nịnh, không ngay thẳng, dối gạt, tin nhận pháp tà và các việc ác khác, khiến pháp bất thiện sinh khởi, đó là phiền não trược.
– Nếu đời nay chính pháp bị hoại diệt, tượng pháp dần khởi, tà pháp lại phát sinh, đó là kiến trược.
– Nếu kiếp đói khát, bệnh tật, đao binh khởi lên, là kiếp trược”.
Luận Câu xá ghi: “Ngũ trược: mạng trược, kiếp trược, hoặc trược, kiến trược, chúng sinh trược.
Trong mạt kiếp, ngũ trược rất thô xấu và thấp nhất, biến thành cặn bã, nên gọi là trược. Do hai trược trước làm tôn giảm thọ mạng và các vật dụng sinh hoạt cần thiết. Do hai trược kế mà tổn giảm các pháp thiện hỗ trợ. Vì sao? Do hai trược này mà các chúng sinh tu tập thiên về lạc hạnh thế gian và tự khổ hạnh, có thể làm tổn hoại pháp thiện hỗ trợ hàng tại gia, xuất gia. Do trược cuối cùng làm tổn giảm thân lượng khiến năng lực, sắc, vô bệnh, lực, trí, niệm, chính cần, bất động đều diệt mất”
Kinh Trì nhân bồ-tát ghi: “Như Lai xuất hiện trong đời có năm trược:
1. Người nhiều xấu ác không biết nghĩa lí.
2. Có sáu mươi hai loại tà kiến rất mạnh, con người không lãnh thụ giáo pháp.
3. Con người nhiều ái dục, trần lao phiền não tăng trưởng mà không biết trừ bỏ.
4. Thọ mạng con người ngắn ngủi. Thời xưa, con người sống tám vạn bốn nghìn tuổi mà còn cho là giảm tổn. Đời nay mạng con người chỉ sống được trăm tuổi, hoặc hơn hoặc kém.
5. Tiểu kiếp chuyển tận, tam tai đang dấy khởi, tất cả đều bị tàn hại. Nếu người nào trong đời ngũ trược Xấu ác này biết kính tin trí tuệ chân chính của Phật thì thật rất khó”.
Luận Thuận chính lí ghi: “Ngũ trược này chỉ là thứ tự hiển bày năm tướng suy đã tăng trưởng cùng tột. Năm tướng suy:
1. Thọ mạng suy kém, thời gian rất ngắn.
2. Tiền tài vật dụng sa sút, vì ánh sáng và sự tươi nhuận tổn giảm.
3. Hạnh thiện sa sút, vì thích làm những việc xấu.
4. Sự tịch tĩnh suy kém, vì chúng sinh lần lượt chống trái, dẫn đến tranh cãi.
5. Tự thân suy kém, vì chẳng phải là bình công đức xuất thế gian.
Vì muốn hiển bày thứ tự năm loại suy tổn bất đồng này, nên phân làm năm trược”.
Kinh Tát-già Ni-kiền-tử ghi: “ Đức Phật bảo ngài Văn-thù-sư-lợi:
– Chư Phật Như Lai có mười hai năng lực thù thắng vị diệu, cũng như đề hồ là tuyệt diệu nhất trong các vị. Năng lực này thanh tịnh bậc nhất, làm thanh tịnh quốc độ của các Đức Phật. Như Lai nhờ năng lực này mà thành tựu A-nậu Bồ-đề. Mười hai năng lực:
1. Thị hiện kiếp trược
2. Thị thiện thời trược
3. Thị hiện chúng sinh trược.
4. Thị hiện phiền não trược.
5. Thị hiện mạng trược.
6. Thị hiện Tam thừa sai biệt trược.
7. Thị hiện cõi Phật bất tịnh trược.
8. Thị hiện nan hóa chúng sinh trược.
9. Thị hiện thuyết tất cả phiền não trược.
10. Thị hiện ngoại đạo loạn trược.
11 .Thị hiện ma trược.
12. Thị hiện ma nghiệp trược.
– Này thiện nam, các ông nên biết! Tất cả quốc độ của chư Phật đều do công đức xuất thế trang nghiêm hoàn toàn thanh tịnh tạo thành. Không có các lỗi uế trược như thế. Tất cả đều là sức phương tiện của các Đức Phật, làm lợi ích cho chúng sinh!”.
Kinh Đại ngũ trược ghi: “Sau khi Phật niết-bàn sẽ có năm loạn:
1. Tì-kheo ở đời sau theo cư sĩ học pháp.
2. Cư sĩ ngồi trên cao, tì-kheo ngồi chỗ thấp.
3. Tì-kheo thuyết pháp thì không có người lãnh thụ thực hành, cư sĩ thuyết pháp lại được khen là cao tột.
4. Tì-kheo nhà ma sinh ra đời này cho pháp thế gian là chân đạo đế, đã không hiểu kinh điển Phật pháp, lại còn cho là giả dối.
5. Đời sau, tì-kheo nuôi dưỡng vợ con nô bộc, tính kế mưu sinh, kiện tụng lẫn nhau, không tuân theo giáo pháp của Phật.
Đời nay thường thấy hàng bạch y vô trí, gặp việc thì dính mắc, nhưng dối cho là hiểu biết Phật pháp, phòng nhà không buông xả mà lại làm mô phạm cho người. Kẻ thế tục ngu si lấy đó làm kim chỉ nam, khiến công phu luống uống, dù có siêng năng cũng không ích gì, đời sau cũng không thoát khỏi địa ngục”.
Nên luận Trí độ ghi: “Như người mù, chính mình không thấy đường mà dối nói thấy đường, nên dẫn năm trăm người mù khác đi, kết quả tất cả đều rơi xuống hầm. Tự mình lao xuống sông sâu, há có thể cứu được?”.
98.3. THỜI TIẾT
Kinh A-nan thất mộng ghi: “Một hôm, A-nan đến thưa Phật:
– Bạch Thế Tôn! Con thấy bảy điều mộng như sau:
1. Thấy lửa bốc cháy ngút trời trong các ao hồ.
2. Thấy mặt trời, mặt trăng và các vì sao đều biến mất.