KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT QUYỂN THỨ TƯ
Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Tỳ kheo Thích Trí Tịnh
PHẨM ẢO HỌC THỨ MƯỜI MỘT
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu sẽ có người hỏi rằng: Ảo nhân học Bát nhã ba la mật nhẫn đến Đàn na ba la mật, ảo nhân học tứ niệm xứ nhẫn đến mười tám pháp bất cộng có được nhất thiết chủng trí chăng? Thời con sẽ phải giải đáp thế nào?”.
Đức Phật nói: “Này Tu Bồ Đề! Phật hỏi lại ông, tùy ý ông đáp lời Phật
Này Tu Bồ Đề! sắc với ảo có khác nhau chăng? Thọ, tưởng, hành, thức với ảo có khác nhau chăng?”.
– Bạch đức Thế Tôn! Không khác.
– Này Tu Bồ Đề! Nhãn đến ý, sắc đến pháp, nhãn giới đến ý thức giới cùng với ảo có khác nhau chăng?
– Bạch đức Thế Tôn! Không khác.
– Này Tu Bồ Đề! Sáu ba la mật, tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng với ảo có khác nhau chăng?
– Bạch đức Thế Tôn! Không khác nhau.
– Này Tu Bồ Đề! Vô thượng Chính đẳng Chính giác với ảo có khác nhau chăng?
Bạch đức Thế Tôn! Không khác. Tại sao vậy? Vì sắc chẳng khác ảo, ảo chẳng khác sắc, sắc tức là ảo, ảo tức là sắc. Nhẫn đến vì Vô thượng Chính đẳng Chính giác chẳng khác ảo ảo chẳng khác Vô thượng Chính đẳng Chính giác, Vô thượng Chính đẳng Chính giác tức là ảo, ảo tức là Vô thượng Chính đẳng Chính giác.
– Này Tu Bò Đề! Ảo có cấu, có tịnh chăng?
– Bạch đức Thế Tôn! Không vậy.
– Này Tu Bồ Đề Ảo có sinh, có diệt chăng?
– Bạch đức Thế Tôn! Không vậy.
– Này Tu Bồ Đề! Nếu ảo chẳng sinh, chẳng diệt, ảo này có thể học Bát nhã ba la mật sẽ được nhất thiết chủng trí chăng?
– Bạch đức Thế Tôn! Không vậy.
– Này Tu Bồ Đề! Ngũ ấm giả danh có phải là Bồ Tát chăng?
– Bạch đức Thế Tôn! Phải.
– Này Tu Bồ Đề! Ngũ ấm giả danh có sinh, diệt, cấu, tịnh chăng?
– Bạch đức Thế Tôn! Không vậy.
– Này Tu Bồ Đề! Nếu những pháp chỉ có danh tự, chẳng phải thân, ngữ, ý, chẳng phải thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp, chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng cấu, chẳng tịnh, thời có thể học Bát nhã ba la mật được nhất thiết chủng trí chăng?
– Bạch đức Thế Tôn! Không vậy.
– Này Tu Bồ Đề! Nếu đại Bồ Tát có thể học Bát nhã ba la mật như vậy thời sẽ được nhất thiết chủng trí. Tại sao vậy? Vì vô sở đắc vậy.
– Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát phải như vậy mà học Bát nhã ba la mật được Vô thượng Bồ đề như ảo nhân học. Tại sao vậy? Nên biết rằng ngũ ấm tức là ảo nhân, ảo nhân tức là ngũ ấm.
– Này Tu Bồ Đề! Ngũ ấm ấy học Bát nhã ba la mật được nhất thiết củng trí chăng?
– Bạch đức Thế Tôn! Không vậy. Vì ngũ ấm này tính vô sở hữu. Tính vô sở hữu cũng là bất khả đắc.
– Này Tu Bồ Đề! Ngũ ấm như mộng, như ảnh, như hưởng, như dương diêm, như biến hoá, học Bát nhã ba la mật sẽ được nhất thiết chủng trí chăng?
– Bạch đức Thế Tôn! Không vậy. Vì mộng tính nhẫn đến biến hóa tính vô sử hữu. Tính vô sở hữu cũng là bất khả đắc.
Lục tình cũng như vậy. Ngũ ấm tức là lục tình, lục tình tức là ngũ ấm.
Vì những pháp ấy tức là nội không, nhẫn đến vô pháp hữu pháp không nên bất khả đắc.
Bạch đức Thế Tôn! Bồ Tát mới phát tâm nghe nói Bát nhã ba la mật có kinh sợ rụt rè chăng?
Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát mới phát tâm đối với Bát nhã ba la mật, nếu không phương tiện cũng chẳng gặp được bậc thiện tri thức, hoặc có kinh sợ, hoặc rụt rè.
– Bạch đức Thế Tôn! Gì là phương tiện mà Bồ Tát thật hành theo đó được chẳng kinh sợ, rụt rè đối với Bát nhã ba la mật?
– Này Tu Bồ Đề! Có Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật đúng với tâm nhất thiết chủng trí, quán tướng vô thường của ngũ uẩn cũng bất khả đắc. Đây gọi là có phương tiện.
Quán tướng khổ, tướng vô ngã tướng vô tác của ngũ uẩn cũng bất khả đắc. Đây gọi là có phương tiện.
Quán tướng ly, tướng tịch diệt của ngũ uẩn cũng bất khả đắc. Đây gọi là đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật có phương tiện.
Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật quán tướng vô thường của ngũ uẩn cũng là bất khả đắc, quán tướng khổ, tướng vô ngã, tướng vô tướng, tướng vô tác, tướng ly, tướng tịch diệt của ngũ uẩn cũng là bất khả đắc. Bấy giờ đại Bồ Tát nghĩ rằng tôi nên vì tất cả chúng sinh mà giảng thuyết tướng vô thường cũng là bất khả đắc, tướng khổ, tướng vô ngã nhẫn đến tướng tịch diệt cũng là bất khả đắc. Đây gọi là đại Bồ Tát Đàn na ba la mật.
Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát chẳng dùng tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật để quán ngũ uẩn, vô thường cũng bất khả đắc, nhẫn đến chẳng dùng tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật để quán ngũ uẩn, tịch diệt cũng bất khả đắc. Đây gọi là đại Bồ Tát Thi ba la mật.
Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật nhẫn thọ ưa thích nơi tướng vô thường, nhẫn đến tướng tịch diệt của các pháp cũng là bất khả đắc. Đây gọi là đại Bồ Tát sằn đề ba la mật.
Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật đúng với tâm nhất thiết chủng trí, quán tướng vô thường nhẫn đến tướng tịch diệt của ngũ uẩn cũng bất khả đắc, chẳng rời bỏ, chẳng thôi nghĩ. Đây gọi là đại Bồ Tát Tỳ lê gia ba la mật.
Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật chẳng mong khởi tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật cùng những tâm bất thiện ác. Đây gọi là đại Bồ Tát Thiền na ba la mật.
Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật suy nghĩ như vầy: Chẳng do không sắc nên sắc là không, mà sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, tưởng hành, thức nhẫn đến ý thức giới cũng như vậy, chẳng phải do không ý thức giới nên ý thức giới là không mà ý thức giới tức là không không tức là ý thức giới. Tứ niệm xứ nhẫn đến mười tám pháp bất cộng cũng như vậy, chẳng phải do không pháp bất cộng nên pháp bất cộng là không, mà pháp bất cộng tức là không không tức là pháp bất cộng. Đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật như vậy không có kinh sợ, rụt rè”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát được bực thiện tri thức hộ trì nên chẳng kinh sợ rụt rè?”.
Đức Phật nói: “Này Tu Bồ Đề! Có thiện tri thức giảng thuyết sắc nhẫn đến ý thức giới, vô thường, khổ, vô ngã nhẫn đến tịch diệt cũng đều bất khả đắc, gìn giữ thiện căn này chẳng hướng về Thanh Văn, Bích Chi Phật đạo mà chỉ hướng về nhất thiết chủng trí, đây gọi là bậc thiện tri thức của đại Bồ Tát.
Này Tu Bồ Đề! Có thiện tri thức giảng thuyết tu tứ niệm xứ nhẫn đến tu mười tám pháp bất cộng cũng là bất khả đắc, gỉữ gìn thiện căn này chẳng hướng về Thanh Văn, Bích Chi Phật đạo, chỉ hướng về nhất thiết chủng trí, đây gọi là bậc thiện tri thức của đại Bồ Tát”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát vì không phương tiện và theo ác tri thức nên kinh sợ, rụt rè khi nghe nói Bát nhã ba la mật này?”.
Đức Phật nói: “Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát rời tâm nhất thiết trí, mà tu Bát nhã ba la mật nên được và nhớ Bát nhã ba la mật này, cũng được và nhớ Thiền na ba la mật, Tỳ lê gia ba la mật, sằn đề ba la mật, Thi la ba la mật, Đàn na ba la mật.
Bồ Tát rời tâm nhất thiết trí mà quán các pháp ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới, nội không nhẫn đến vô pháp hữu pháp không, nơi pháp không đây có nhớ, có được.