Kinh: Khi ấy, vua Ba Tư Nặc nhân ngày kỵ (giỗ) phụ vương, mở tiệc chay mời Phật thọ trai. Tự Ngài đứng nơi cung dịch nghinh rước Đức Như Lai, dọn bày các món ăn quý báu, rồi thân đến rước Phật và các vị Đại Bồ tát. Trong thành lại có các trưởng giả, cư sĩ cùng dự lễ trai tăng chờ Phật đến chứng minh. Phật khiến Ngài Văn Thù phân lãnh các vị Bồ tát và A La Hán đi đến nhà các trai chủ.
Duy có Ông Anan trước đã nhận lời mời riêng, đi xa chưa về, không kịp dự hàng tăng chứng. Ông về một mình, không có Thượng tọa hay A xà lê cùng đi, và ngày ấy cũng không được ai cúng dường. Lúc bấy giờ, ông mang bình bát vào trong một thành, trên đường đi tuần tự khất thực. Ban đầu, trong lòng cầu được một người bố thí tối hậu để làm trai chủ, không kể sang hèn, đều hành tâm Từ bình đẳng. Phát tâm viên thành cho tất cả chúng sanh được vô lượng công đức.
Ông Anan đã biết Đức Phật quở Ông Tu Bồ Đề và Ông Đại Ca Diếp làm bậc A La Hán, mà tâm chẳng bình đẳng. Ông kính vâng lời khai thị của Phật, lìa thoát mọi nghi báng. Đi đến bên thành, thong thả vào cửa, nghiêm chỉnh oai nghi, kính giữ phép hóa trai.
Thông rằng : Vua Ba Tư Nặc cùng các vị trưởng giả, cư sĩ đồng thời cùng dự lễ trai tăng, sao ân cần như vậy ? Vì công đức trai tăng rất lợi ích. Phật có thuyết cho Ông cấp Cô Độc về quả báo của bố thí : hoặc là bố thí nhiều mà quả báo ít, hoặc là bố thí ít mà quả báo nhiều. Cúng dường cho ngàn vị Phật, không bằng cúng dường cho một vị Tịnh Hạnh. Cho đến cúng dường trăm ngàn vị Phật không bằng cúng dường cho một Đạo Nhân Vô Tâm.
Kinh Bốn Mươi Hai Chương nói rằng : “Phật dạy : cho một trăm người ác ăn không bằng cho một người thiện ăn. Cho một ngàn người thiện ăn không bằng cho một người giữ Ngũ Giới ăn. Cho một vạn người giữ Ngũ Giới ăn không bằng cúng dường một vị Tu Đà Hoàn. Cúng dường một trăm vạn vị Tu Đà Hoàn không bằng cúng dường một vị Tư Đà Hàm. Cúng dường một ngàn vạn vị Tư Đà Hàm không bằng cúng dường một vị A Na Hàm. Cúng dường một ức vị A Na Hàm không bằng cúng dường một vị A La Hán. Cúng dường mười ức vị A La Hán không bằng cúng dường một vị Bích Chi Phật. Cúng dường một trăm ức vị Bích Chi Phật không bằng cúng dường ba đời chư Phật. Cúng dường ngàn ức ba đời chư Phật không bằng cúng dường cho một vị không niệm, không trụ, không tu, không chứng.”
Đại lược hai đoạn trên tương đồng với nhau.
Có vị sư hỏi Tổ Lạc Phổ(1): “Cúng dường trăm ngàn vị Phât chẳng bằng cứng dường một vị đạo nhân không tâm (Vô Tâm). Trăm ngàn chư Phật có lỗi gì ? Ngườỉ đạo nhân Vô Tâm có đức gì ?”
Tổ đáp : “Một mảnh mây trắng qua trước hang. Biết bao chim chóc lạc ổ về.”
Ngài Đơn Hà(2) tụng rằng :
“Thập Đắc bơ thờ không tỏ hiểu
Hàn Sơn(3) uể oải chẳng biết về
Trước tiếng một câu viên âm đẹp
Ngoài vật ba núi mảnh trăng soi.”
(Thập Đắc số dung phi giác hiểu
Hàn Sơn lại đọa bất tư quy
Thanh tiền nhất cú viên âm mỹ
Vật ngoại tam sơn phiến nguyệt quy.)
Câu ba : Viên Âm là tiếng vọng trải khắp mầu nhiệm, thuộc ẩn.
Câu bốn là hiển.
Đây là riêng tụng về đạo nhân Vô Tâm đó vậy.
Ông Cam Chi hành giả một ngày kia vào chỗ Ngài Nam Tuyền(4) bày trai cúng, gặp Tổ Huỳnh Bá làm Thủ tòa.(5) Ông xin được bồ’ thí tiền của.(6)
Tổ Bá nói : “Tài thí và pháp thí đều không sai biệt.” Ông Cam Chi nói : “Nói thế nào để tiêu được cái của cúng của tôi ?” Bèn ra về.
Một lát, lại trở vào, nói : “Xin được thí tài.”
Tổ Bá nói : “Tài thí và pháp thí đều không sai biệt.” Ông Cam Chi bèn dâng cúng.
Lại một ngày nọ, ông vào chùa dọn cháo, xin Tổ Nam Tuyền tụng niệm cho. Tổ Tuyền mới bạch chùy,(7) nói: “Xin đại chúng vì chồn, trâu già mà niệm Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.”
Ông Cam Chi bèn phất tay áo đi ra.
Dùng cháo xong, Tổ Tuyền hỏi thầy Điển tòa: “Hành giả đâu rồi?”‘
Đáp: “Liền khi nãy đi rồi.”
Tổ Tuyền bèn đập nát cái nồi.
Ngài Sớ Sơn(8) tụng rằng :
“Một mình bày cháo khoe anh tuấn
Nào hay vương lão lại phong lưu
Đập tan nồi cháo bày vụng xấu
Chồn với trâu già một lượt thâu.”
Như Ông Cam Chi mới đáng gọi là có. thể cúng dường đạo nhân Vô Tâm vậy.
Hành khất có năm nghĩa: một là, trong chứng bình đẳng, ngoài không thấy tướng giàu nghèo. Hai là, rời cái tâm tham lam kiêu mạn ngã theo điều lợi. Ba là, có sức Đại Định, chẳng có sợ các độc dữ của nhà gái dâm. Bốn là, lìa bỏ sự nghi ghét của phàm phu. Năm là, phá chỗ phân biệt của Nhị thừa. Đức Duy Ma Cật nói rằng : “Nơi ăn mà bình đẳng, thì nơi pháp cũng bình đẳng. Chẳng luận sang hèn, dơ sạch đều chứng Bồ Đề. Đó là viên thành vô lượng công đức của tất cả chúng sanh.” Ông Tu Bồ Đề thì bỏ nghèo theo giàu. Ông Đại Ca Diếp thì bỏ giàu theo nghèo. Thế tức là lòng Từ chẳng quân bình, chẳng gọi là lòng Từ bình đẳng. Nhưng khi Ông Anan trong tâm vừa khởi niệm như thế, là đã rơi vào ý thức phân biệt, bèn thuộc về cái kế sanh nhai của nhà quỷ, nên ma mới cố cơ hội.
Làm sao sánh được với sự hành khất như thế này: Thuở trước, có vị Hòa thương, thường dừng gậy quảy một cái bao bố với cái nệm rách. Bao nhiêu đồ dùng đều bỏ hết ráo trong cái bao ây. Vào chợ búa xóm làng, thấy vật gì thì xin. Hoặc thịt chua cá mặn, vừa lấy thì bỏ vào miệng, còn lại thì bỏ trong bao. Đời ấy người ta gọi là Trường Đinh Tử. Một hôm, có vị tăng đi trước mặt, Sư bèn vỗ vào lưng, vị tăng quay đầu lại.
Sư nói : “Cho ta một đồng tiền.”
Tăng nói : “Nói được thì cho ông một đồng tiền.”
Sư bỏ cái bao bố xuống, khoanh tay mà đứng sững.
Lại một ngày nọ, Ngài đứng ở chợ. Có vị tăng hỏi : “Hòa thượng tại Trong Ây(9) làm cái gì ?”
Ngài đáp : “Đồng với con người.”
Tăng rằng : “Đến rồi vậy, đến rồi vậy.”
Ngài nói : “Ông chẳng phải là con người ấy đâu.”
Tăng hỏi : “Thế nào là con người đó ?”
Ngài đáp : “Cho ta một đồng tiền !”
Ngài có bài kệ :
“Một bát cơm ngàn nhà
Cô thân muôn dặm xa
Mắt xanh, người ít thấy
Mây trắng hỏi đường qua.”
(Nhất bát thiên gia phạn