Kinh : Anan, ông thường hai thời ở trong chúng cầm bình bát khất thực. Trong đó, hoặc gặp những món tô lạc đề hồ, gọi là vị quý. Ý ông thế nào? Vị ấy sanh ra ở trong hư không, do nơi cái lưỡi hay do nơi đồ ăn ?
Anan, nếu cái vị ấy sanh ra do nơi cái lưỡi của ông, thì ở trong miệng ông chỉ có một cái lưỡi. Cái lưỡi lúc ấy đã thành vị tô rồi, nếu gặp cục đường phèn, lẽ ra cái vị không thay đổi. Nếu chẳng thay đổi thì không gọi được là biết vị. Còn nếu thay đổi thì cái lưỡi không có nhiều tự thể, thì làm sao một cái lưỡi lại biết được nhiều vị thể thế?
“Nếu vị ấy sanh ra do nơi đồ ăn, thì đồ ăn không có sự biết, làm sao tự nó biết vị? Lại như đồ ăn tự biết, thì cũng giống như người khác ăn, nào có dính dáng gì đến ông, mà nói là ông biết vị?
“Nếu vị ấy sanh ra từ hư không, thì ông hãy nếm hư không xem là vị gì. Nếu hư không đó mà có vị mặn, làm mặn lưỡi ông, chắc cũng làm mặn cái mặt ông và mọi người trong cõi này : cũng giống như cá biển, đã thường thọ nhân cái mặn thì không còn biết cái vị nhạt là gì nữa. Nhưng nếu không biết nhạt thì lại cũng không biết mặn. Tức là không có chỗ biết, sao gọi là biết vị ?
“Thế nên, phải biết : các vị và lưỡi biết nếm đều không xứ sở. Tức cái biết nếm và các vị, cả hai xứ đều hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.
Thông rằng : Đoạn này chứng minh cái tánh của vị, chẳng sanh ra do nơi hư không, chẳng sanh ra do nơi lưỡi, thì còn dễ biết. Nhưng sao lại nói chẳng do món ăn sanh ra ? Vì, món ăn chẳng có thức, nó chẳng tự nói : vị của tôi ngon, vị tôi dở. Phân biệt ngon, dở là thuộc về căn lưỡi. Mà căn lưỡi thì không có định thể, theo vị mà dời đổi. Đủ biết rằng : vị tự là vị, lưỡi tự là lưỡi. Cả hai đều lặng nhiên. Biết lưỡi cùng vị đều vắng lặng, thì thật tin là chúng chẳng phải là nhân duyên, chẳng phải là tự nhiên mà chính là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh.
Thiền sư Thần Đảnh Nhân có lần cùng với chúng Tăng đến miền Tương Miện. Có một vị sư khởi bàn về Thiền rất trôi chảy. Trong quán Dã Phạn Sơn đã bày xong thức ăn, mà nhà sư luận nói vẫn chưa xong.
Tổ Đảnh nói : “Ba cõi duy chỉ một Tâm, muôn pháp duy chỉ là thức. Duy thức, duy tâm, mắt thanh, tai sắc là lời của ai thế ?”
Nhà sư nói : “Lời của Tổ Pháp Nhãn.”
Tổ Đảnh hỏi : “Nghĩa ấy như thế nào ?”
Sư đáp : “Duy tâm nên căn và cảnh không đến nhau. Duy thức nên thanh, sắc khua đánh.”
Tổ Đảnh nói: “Cái lưỡi, cái vị có phải là căn và cảnh không ?”
Nhà sư đáp : “Phải.”
Tố Đảnh lấy đũa gắp rau bỏ vào miệng, giỡn cợt nói rằng : “Nào gọi là tương nhập sao ?”
Người ngồi chung quanh đều kinh hãi. Nhà sư chẳng thể đáp lại.
Tổ Đảnh nói : “Cái vui dọc đường rốt cuộc chưa đến nhà. Kiến giải dầu vi diệu cũng chẳng gọi là thấy đạo. Tham, cần thật tham. Ngộ, cần thật ngộ. Diêm vương chẳng sợ chuyện nói nhiều.”
Vị sư làm lễ mà cáo từ.
Tổ Huyền Sa có lần ăn trái vải, hỏi đại chúng : “Trái vải này cho là màu hồng ư ? Cho là màu đỏ ư ? Các ông làm sao đây ? Nếu nói là một màu lại là mông lung ; nói là nhiều màu thì chỉ thành cái đoạn-thường.(17) Các ông làm sao đây ?”
Sư Ngạn Thao nói: “Đó chỉ vì Hòa thượng phân biệt.”
Tổ Sa nói: “Ngu si mơ hồ như thế có giao thiệp gì đằu?”
Sư Xung Cơ nói : “Hết thảy xưa nay chỉ là một màu.”
Tổ Sa nói: “Đều là mơ hồ hết, có khi nào mà hiểu được ?”
Bèn quay qua hỏi sư Kiểu Nhiên: “Ông nói thế nào ?”
Sư Kiểu Nhiên nói: “Không thể không biết đó là tráivải.”
Tổ Sa nói: “Thật chỉ là trái vải.”
Lại nói : “Các ông như lâu nay ở trong Giá Lý (Tâm Pháp) của tôi, cùng nói gì mà chẳng biện nổi trắng đen, không biết lành dữ. Tôi luôn nói với các ông là : Dụng xứ chẳng hoán(18) cơ. Nhân sao chỉ lo đối đáp, có giao thiệp gì đâu!”
Người xưa nơi một miếng ăn, một thức uống đều phát minh chuyện hướng thượng. Mỗi mỗi đều như thế ta phái ở chỗ đối đáp lưu loát, cần phải thực ngộ mới cùng người sáng mắt tương kiến vậy.