QUYỂN THỨ BA PHẨM THỨ MƯỜI CHÍN DỤ LÃO MẠO
1 – PHẬT QUỞ BẢY VỊ SA MÔN GIÀ
Xưa, Phật ở nước Xá-vệ, Tinh xá Kỳ Hoàn, sau bữa ăn vì các trời, người, vua, quan, cùng bốn chúng nói pháp. Lúc ấy, có bảy vị Bà-la-môn lớn tuổi từ xa tìm đến nơi Phật ở, cúi đầu lễ dưới chân Phật, chắp tay bạch :
– Chúng con ở chốn xa xôi, nghe Ngài hóa độ theo lẽ quy y Tam Bảo từ lâu, nhưng vì bị nhiều việc ngăn trở, hôm nay mới đến được thấy dung nhan của Thánh, xin làm đệ tử để được hết các khổ.
Phật thâu nhận cho làm Sa-môn tất cả, dạy cùng nhau ở chung một phòng.
Nhưng bảy người này, thấy Thế Tôn đắc đạo mà theo chớ không phải vì sợ lẽ vô thường, nên mọi người trong phòng ấy chỉ nghĩ việc đời, nói thì thầm cười to tiếng, không kể thành hay bại gì cả. Phật dùng trí “tam đạt” biết mạng các ông mỗi ngày gần kề không hẹn cùng người. Ngài rất thương xót, đến phòng các ông bảo :
– Các ông cầu đao phải cầu ra khỏi thế gian, tại sao lại cười lớn như vậy ? Tất cả chúng sanh có năm việc cậy nhờ. Những gì là năm ? Một là cậy nhờ nhỏ tuổi; hai là cậy nhờ đoan chánh; ba là cậy nhờ sức mạnh; bốn là cậy nhờ giòng giàu sang; năm là cậy nhờ giòng họ quý phái. Bảy người các ông nói nhỏ, cười to lấy gì cậy nhờ ?
Lúc ấy, Thế Tôn liền nói kệ :
Hà hỷ hà tiếu
Niệm thường xí nhiên
Thâm tế u minh
Bất như cấu định
Kiến thân hình phạm
Ý dĩ vi an
Đa tưởng trí bệnh
Khởi tri bất chơn.
Lão tắc sắc suy
Bệnh vô quang trạch
Bì hoãn cơ súc
Tử mạng cận xúc
Thân tử thần tùng
Như ngự khí xa
Nhục tiêu cốt tán
Thân hà khả hổ.
Sao lại vui cười
Nghĩ lửa vô thường
Ngăn che tối tăm
Không cầu thiền định
Đặng làm mô phạm
Lấy gì để an
Nhiều bệnh vọng tưởng
Đâu biết lẽ chơn.
Sắc già phải suy
Bệnh không tươi nhuận
Nước da đã tàn
Mạng chết gần kề
Khi chết thần lìa
Như thể bỏ xe
Thịt tiêu xương tàn
Thân cậy nơi nào!
Phật nói kệ xong, bảy vị Tỳ-kheo ý giải vọng dứt, chứng đạo quả A-la-hán liền ngay tại chỗ.
2- LÃO BÀ LA MÔN CHỨC LỚN GIÀU TO MÀ KHÔNG BỐ THÍ, TRÁI LẠI …
Thuở xưa, Phật ở Tinh xá nước Xá-vệ- Vì trời, người, vua thuyết ba thời pháp.
Khi ấy, có thôn Bà-la-môn trên năm trăm nhà trong đó có năm trăm Bà-la-môn tuổi trẻ, tu theo thuật Bà-la-môn, kiêu mạn với mọi người, chẳng kính bậc Trưởng lão, cống cao tự cho giai cấp mình là quý, coi thường các giai cấp khác. Năm trăm Phạm Chí ngất ngưởng tự luận nghị nói :
– Sa-môn Cù Đàm tự xưng là Phật, tam đạt quyền trí không dám cùng luận nghị VỞI bọn ta, có thể cùng nhau thỉnh cầu luận nghị, các vị cật hỏi mới biết Ngài như thế nào.
Liền bày đồ cúng đầy đủ qua thỉnh Phật đến. Phật cùng đệ tử đến trong thôn Phạm Chí, ăn xong rửa tay. Khi ấy, có hai vợ chồng Trưởng lão Phạm Chí ở trong thôn này, cùng đi ăn xin. Phật biết hai vợ chồng kia giàu có làm quan chức rất lớn, Phật liền hỏi các Phạm Chí nhỏ tuổi :
– Các ông có biết Trưởng lão Bà-la-môn này chăng ?
Các Phạm Chí nhỏ tuổi đều đáp :
– Từng biết.
– Ông ấy là hạng người như thế nào ?
– Ông vốn là quan lớn của cải giàu vô số.
– Nay sao lại làm người ăn xin ?
– Đều nói buông bỏ lấy không có đạo ấy là giữ nghèo.
Phật bảo Bà-la-môn, trong đời có bốn việc người chẳng hay làm, làm được phước chẳng suy nghèo. Sao gọi là bốn ? Một là tuổi nhỏ sức mạnh, cẩn thận chớ có kiêu mạn; hai là tuổi già tinh cần chẳng tham dâm dục; ba là có của cải trân báu thường nghĩ đến việc bố thí; bốn là đến thầy học hỏi nghe nhận lời chơn chánh. Như thế ông lão chẳng thực hành bốn việc, gọi là thường chẳng kể thành bại, một ngày nào lìa tan, giống như chim hộc già giữ ao không kia, trọn không chỗ thu hoạch.
Lúc ấy, Đức Thế Tôn liền nói bài kệ :
Trú dạ mạn nọa
Lão bất chỉ dâm
Hữu tài bất thí
Bất thọ Phật ngôn
Hữu thử tứ tế
Vi tự xâm khi
Đốt ta lão chi
Sắc biến tác mạo
Thiếu thời như ý
Lão kiến đạo tiển
Bất tu Phạm hạnh