Tất cả hành vô thường
Tất cả pháp vô ngã
Và niết-bàn tịch tĩnh
Đây là ba pháp ấn.
Ánh sáng ấy lại soi tới tất cả địa ngục, cũng phát ra lời kệ như thế. Lại chiếu đến mười phương thế giới, trong ánh sáng ấy cũng phát ra lời kệ như thế.
Phật bảo: Này A-nan! Bát và xá-lợi của Ta phóng ánh sáng chiếu đến mười phương thế giới, làm Phật sự rồi trở lại chỗ cũ, kết thành lọng mây sáng rỡ trụ trong hư không. Khi bát và xá-lợi hiện thần biến này, tám mươi trăm ức chúng sinh đắc quả A-la-hán; nghìn ức chúng sinh xuất gia có lòng tin thanh tịnh. Một vạn chúng sinh phát tâm A-nậu bồ-đề, đều không thoái chuyển. Lúc ấy ngài Di-lặc ôm bát và xá-lợi của Ta, nói với trời người và tất cả đại chúng:
– Các ông nên biết! Bát và xá-lợi này là cửa Thích-ca Mâu-ni Như Lai, bậc đại sĩ dõng mãnh luôn giúp cho vô lượng trăm nghìn na-do-tha ức chúng sinh trụ trong thành Niết-bàn, quí hơn trăm nghìn ức lần hoa Ưu-đàm, vì thế bát và xá-lợi Phật mới đến nơi này. Sau đó, Phật Di-lặc xây bốn bảo tháp phụng thờ bát và xá-lợi của Ta, thiết trai cúng dường, cung kính, lễ bái”.
Truyện Đạo Tuyên luật sư trụ trì cảm ứng ghi: “Luật sư hỏi một vị trời:
– Do nhân duyên gì mà giữ gìn bát của Đức Phật?
Vị trời thưa:
– Sau khi Như Lai thành đạo ba mươi tám năm, trên giảng đường Trùng Các tại tinh xá Kì-hoàn, Đức Phật bảo: ‘Này Văn-thù-sư-lợi! Ông hãy đến giới đàn rung chuông triệu tập thiên, long, tì-kheo và các đại bồ-tát khắp mười phương đến tinh-xá Kì-hoàn’.
Ngài Văn-thù-sư-lợi vâng lời Thế Tôn triệu tập đại chúng đông đủ. Lúc ấy Đức Phật dùng thần thồng biến tinh xá Kì-hoàn giống như nước Diệu Lạc. Giữa chặng mày của Phật phóng ra ánh sáng chiếu khắp mười phương, coi đất chấn động sáu cách. Trăm ức Thích-ca và mười ức Phật Diệu Quang cùng vân tập đến tinh xá Kì-hoàn. Bấy giờ, Thế Tôn ngồi kết già, nhập Kim Cương tam-muội, mặt đất lại chấn động sáu cách. Sau khi xuất định, Thế Tôn nói tiếng lớn bảo tất cả đại chúng trong ba nghìn thế giới:
– Trước đây, khi vượt thành xuất gia, Ta từng đi qua nước của vua Bình-sa, rồi vào núi tu đạo, thiên ma đến mê hoặc ta, lúc ấy có vị thần núi chỉ cho ta chỗ tu đạo, thần nói:
– Khi xưa- con từng ở đây, sau khi Phật Ca-diếp nhập niết-bàn có để lại bát sành cũ và dặn con giữ gìn, đợi Như Lai thị hiện, trao bát này cho Ngài. Vì thế trước khi thành đạo, Thế Tôn phải thụ bát này, rồi mới đến bát của Tứ thiên vương.
Ta nói với thần núi:
– Nếu ta thành Phật, sẽ làm đúng lời ông nói!
Sau khi xuống sông tắm gội xong, Ta nhận cháo sữa của hai cô gái, thần núi liền dâng bát. Ta dùng bát này đựng cháo sữa thì cõi đất lại chấn động. Ta giữ bát này trải qua ba mươi tám năm, chưa từng sứt mẻ. Một hôm, quốc vương thỉnh ta vào thành Vương Xá cúng dường. Thụ trai xong, ta bảo La-hầu-la đem bát về ao rồng. La-hàu-la làm bát vỡ thành năm mảnh. Ta liền lấy chì, bạc hàn lại, Đây không phải lỗi của La-hầu-la mà là điềm biểu hiện đời vị lai các ác tì-kheo tì-kheo-ni khinh chê, hủy hoại pháp khí của ta. Năm trăm năm đầu, tạng luật bị chia ra năm bộ, tạng kinh chia thành mười tám bộ. Đến khi chính pháp diệt, ba tạng kinh luật luận lại bị phân ra thành năm trăm bộ. Những tì-kheo vô trí vốn không có lòng từ, cũng không phát nguyện rộng cứu độ chúng sinh, mà chỉ khởi tâm tranh luận, dựng cờ ngã mạn làm cho chính pháp mau diệt. Đến một nghìn năm thi chính pháp bị hủy diệt, các ác tì-kheo đầy khắp Diêm-phù-đề và các cõi khác. Họ không giữ giới cấm, còn ác tì-kheo-ni giống như dâm nữ, không thực hành Bát kỉnh pháp, đem bát của ta đến khắp tửu điếm chứa rượu thịt. Thật đau xót thay! Như thế lẽ nào chính pháp không hủy diệt!
Bấy giờ, các tì-kheo đồng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Sáng nay, chúng con vào thành khất thực, trở về trụ xứ thụ trai xong. Mọi người đem bát đi rửa, nhưng tất cả bát đều bị bể thành năm mảnh. Vì sự việc này, chúng con muốn đến thưa hỏi, thì được nghe Thế Tôn nói đây là điểm biểu hiện đời vị lai chính pháp sẽ bị hủy diệt, chúng con vô cùng lo sợ.
Thế Tôn liền bảo các tì-kheo:
– Ta giữ lại tám mươi ức bồ-tát tăng ở thế gian không vào niết-bàn. Trong đời ác mai sau, những bồ-tát này sẽ hộ trì thánh giáo, mỗi người đều dùng thần lực cảm hóa các tì-kheo xấu ác, khiến họ kính trọng bát của Phật.
Khi ấy, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy đến giới đàn và từ phía bắc bước lên, các tì-kheo dâng bát, Đức Phật thụ nhận. Đức Phật bảo La-hàu-la đem bát vỡ đến, rồi Ngài nhận và ném bát lên hư không, bay đến tận trời Hữu Đỉnh. Cứ thế, tất cả các vị Phật cùng hiệu Mâu-ni lần lượt ném bát của mình lên hư không. Các bát nối kết nhau giống như chuỗi hạt châu, đến đỉnh trời Sắc giới rồi lại rơi xuống giới đàn.
Bấy giờ, trăm ức vị Phật đến dự hội đều bảo thị giả đem bát của mình đến cúng dường Phật Thích-ca Mâu-ni. Các vị Phật cùng giữ gìn bát đó, khiến cho các tì-kheo, tì-kheo-ni xấu ác đời sau sinh tâm xấu hổ. Nhận bát xong, Thế Tôn lần lượt ném lên cõi trời, các bát xếp chồng rồi theo thứ tự rơi trở lại giới đàn. Bấy giờ, Thế Tôn hóa bát sành vỡ thành lá cờ bằng vàng của các cõi trời, phóng ánh sáng chiếu khắp mười phương.
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài nói với trời Đế Thích:
– Ông hãy cúng dường trân châu và các thợ giỏi cho ta!
Ngài lại bảo thiên ma-cúng bảy thứ báu, long vương Bà-kiệt cúng châu ma-ni.
Thế là Đế Thích, thiên ma, long vương liền dâng cúng châu báu lên Thế Tôn. Trong hai mươi mốt ngày, tất cả mọi người tập hợp tại giới đàn, xây tháp bằng chân châu, dùng bảy báu trang trí, trên đỉnh tháp gắn châu ma-ni. Nhờ thần lực của Đức Phật, nên trong hai mươi mốt ngày đã hoàn thành tám trăm ức tháp trân châu và bảy báu. Tất cả tháp ấy đều thờ bát sành của Như Lai.
Bấy giờ, ma vương thưa:
– Bạch Thế Tôn! Con đã xây tháp báu thờ bát của Ngài. Tuy con là thiên ma, nhưng kính vâng lời Ngài. Vì thế đời vị lai con không để cho người ác phá hoại chính pháp, con khuyến hóa các ác tì-kheo, khiến họ sinh lòng hổ thẹn.
Đức Phật nhận lời, ma vương dùng toàn ma-ni xây tháp lớn, cao đến bốn mươi do-tuần phụng thờ bát của Đức Phật. Sau khi Thế Tôn niết-bàn, Ngài phó chúc cho ma vương xây tháp, rồi nói với Đế Thích, Tứ thiên vương cùng đại ma vương:
– Các ông phải giữ gìn, sau khi ta niết-bàn, chính pháp diệt tận, các ông hãy đem tháp thờ bát của Ta đặt ở phía nam giới đàn. Trong mười hai năm đó Tứ thiên vương các ông phải ngày đêm cúng dường, giữ gìn đừng để tổn thất. Sau mười hai năm hãy giao lại cho long vương Bà-kiệt đặt trong long cung”.
Trong Tì-ni ghi: “Đức Phật lại bảo long vương phải xây mười sáu tháp phụ thuộc tháp bát. Mười hai năm sau giao cho Đế Thích, Tứ thiên vương đem tháp bát đến đỉnh núi Tu-di, đặt ở phía nam hồ Kim Sa trong vườn Hoan Hỉ của trời Đế Thích.
Đức Phật lại bảo Càn-thát-bà vương và tám bộ thần:
– Trong bốn mươi năm các ông hãy tấu nhạc trời cúng dường bảo tháp, vì đệ tử trì giới trong đời ác kia mà giữ gìn ứng lượng khí như con ngươi của mình.
Đức Phật bảo Đế Thích, Tử thiên vương:
– Các ông vào hang Kim Cang trong núi Tu-di lấy đá màu vàng, tạo nhiều bát đá hình dáng kích thước y như bát vỡ của Ta, hình dáng như năm mảnh ráp nối, sau đó thờ trong tháp mới và phải giữ gìn đừng để tồn thất. Một trăm năm sau, khi vua A-dục xây tháp xong, vua ấy sẽ đem tháp của ta đặt khắp cả nghìn cõi nước, cứ mười ức nhà, hoặc trong khoảng chu vi một vạn dặm đặt hai tháp thờ bát. Trong các cõi nước ấy, phải tìm những danh sơn là nơi các vị thánh ẩn cư ngày xưa, để đặt tháp.
Đức Phật lại bảo thiên vương ở phía bắc đến núi Lăng-già tìm hương Ngưu Đầu chiên-đàn, ngày ba lần đốt hương cúng dường tháp, đừng gián đoạn. Ta cũng bảo trời Tự Tại an trí tất cả tháp thờ bát, lại sai Tứ thiên vương và Càn-thát-bà vương phải thường đốt hương, trỗi nhạc cúng dường.
Các trời, rồng, thần nên biết! Vì giúp cho các tì-kheo, tì-kheo-ni phi pháp đời sau bỏ ác làm lành, cho nên ta sắp xếp như vậy”.
98.6. Phật pháp suy vi
