3. Thấy hàng xuất gia tì-kheo lại ở trong hầm hố dơ bẩn, còn người bạch y bước qua đầu họ mà thoát ra.
4. Thấy bầy heo chạy đến húc đổ, phá hoại rừng chiên-đàn.
5. Thấy đầu mình đội núi Tu-di mà không cảm thấy nặng.
6. Thấy voi mẹ bỏ con mình mà đi.
7. Thấy vua sư tử Hoa-tát, ừên đầu có bảy sợi lông mịn, nằm chết trên đất. Tất cả cầm thú thấy thế đều sợ hãi. Lại thấy trùng từ thân sư tử xuất hiện rồi lại ăn thịt sư tử.
Xin Đức Thế Tôn giải thích cho con hiểu!
Phật bảo A-nan:
-Những điềm mộng của ông đều biểu hiện cho những việc sẽ xuất hiện vào thời năm trược ác mai sau. Ông không bị tổn hại, cớ sao lại buồn?
Thứ nhất, ông mộng thấy các ao hồ lửa đều lửa bốc cháy ngút trời, đó là điềm tì-kheo ở đời sau tâm thiện càng ít, ác nghịch lại dẫy đầy, sát hại lẫn nhau không thể tính hết.
Thứ hai, ông thấy mặt trời, trăng, sao đều biến mất là điềm báo sau khi Như Lai nhập Niết-bàn tất cả thanh văn đều theo Phật vào niết-bàn, không ở lại thế gian nữa, con mắt của chúng sinh đã tắt.
Thứ ba, ông mộng thấy hàng xuất gia tì-kheo lại ở trong hầm hố dơ bẩn còn người bạch y bước lên đầu họ mà đi; đó là điềm báo tì-kheo ở đời vị lai ôm lòng sân hận, tật đố, dẫn đến giết hại lẫn nhau. Đạo sĩ chặt đầu cư sĩ, sau khi chết phải đọa địa ngục, còn hàng bạch y nhờ tinh tiến, sau khi chết được sinh thiên.
Thứ tư, ông mộng thấy bầy heo chạy đến húc đổ, phá hoại rừng chiên-đàn là điềm báo đời sau bạch y vào chùa tháp phỉ báng, moi móc những điều xấu của chúng tăng, phá tháp, hại tăng.
Thứ năm, ông thấy đầu mình đội núi Tu-di mà không cảm thấy nặng, đó là điềm báo sau khi Phật vào niết-bàn, A-nan sẽ làm thầy nghìn vị a-la-hán trùng tuyên lại kinh điển, không quên sót một câu, người thụ nhận rất nhiều, mà không cho là nặng.
Thứ sáu, ông thấy voi mẹ bỏ con mình mà đi, là điềm báo tương lai tà kiến hưng thịnh, phá hoại chính pháp của Ta, người có đức độ đều ẩn cư không ra giáo hóa.
Thứ bảy, ông thấy vua sư tử chết, là điềm báo sau khi Phật nhập niết-bàn, một nghìn bốn trăm bảy mươi năm, bốn chúng đệ tử dốc tâm tu đạo, tất cả ác ma không quấy nhiễu được. Bảy sợi lông là biểu thị cho việc sau bảy trăm năm”,
Kinh Ma-da ghi: “Ma-da hỏi A-nan:
– Xưa nay, ngài có từng nghe Thế Tôn nói chính pháp của Như Lai lúc nào bị hoại diệt không? A-nan rơi lệ đáp:
– Lúc trước, tôi từng nghe Thế Tôn nói những việc sau khi chính pháp diệt ở đời vị lai:
Sau khi Phật nhập niết-bàn, Ma-ha Ca-diếp bảo tôi kết tập kinh tạng, việc kết tập hoàn mãn, Ca-diếp sẽ vào núi Kê Túc nhập Diệt tận định, tôi cũng chứng quả; sau đó lần lượt vào niết-bàn. Tôi lại phó chúc chính pháp cho Ưu-ba-cúc-đa. ưu-ba-cúc-đa cũng giảng pháp yếu giỏi như Phú-lâu-na, nên truyền bá rộng rãi, độ khắp mọi người, sau đó lại khuyến hóa vua A-thâu-già phát khởi lòng tin vững chắc đối với chính pháp của Đức Phật.
Sau đó vua dựng tám vạn bốn nghìn tháp khắp nơi, tôn thờ xá-lợi của Phật. Trải qua hai trăm năm lại có tì-kheo Thi-la-nan-đà cũng giảng nói pháp yếu độ mười hai nghìn ức người tại cõi Diêm-phù-đề. Qua ba trăm năm thì có tì-kheo Thanh Liên Hoa Nhãn cũng giảng thuyết pháp yếu hóa độ nửa ức người. Đến bốn trăm năm có tì-kheo Ngưu Khẩu giảng pháp yếu độ được hai vạn người. Đến năm trăm năm có tì-kheo Bảo Thiên giảng pháp yếu độ hai vạn người. Tám bộ chúng sinh đều phát tâm A-nậu bồ-đề; từ đây thời chính pháp chấm dứt. Sau sáu trăm năm, chín mươi sáu phái ngoại đạo v.v… tà kiến đua nhau dấy khởi phá diệt Phật pháp. Lúc ấy có tì-kheo Mã Minh giảng thuyết pháp yếu rất giỏi, hàng phục tất cả bọn ngoại đạo. Đến bảy trăm năm có tì-kheo Long Thọ cũng giảng pháp yếu giỏi, xô ngã cờ tà kiến, thắp đèn chính pháp. Đến tám trăm năm, các tì-kheo ưa thích y phục tốt đẹp, buông lung giỡn cười. Trong trăm nghìn vạn người chỉ một hai người được đắc đạo. Sau chín trăm năm nô bộc, tì nữ xuất gia làm tì-kheo, tì kheo ni. Đến một nghìn năm, các tì-kheo nghe đến pháp quán bất tịnh, quán sổ tức, liền nổi sân giận không ưa thích. Vô lượng tì-kheo chỉ còn một hai người tư duy chính pháp.
Sau một nghìn một trăm năm, các tì-kheo làm những việc mai mối như người thế tục, ở trong đại chúng hủy báng tì-ni. Sau một nghìn hai trăm năm, các tì kheo và tì-kheo ni làm những việc phi phạm hạnh, có con trai thì cho làm tì-kheo, có con gái thì cho làm tì-kheo ni. Sau một nghìn ba trăm năm, ca-sa đổi thành màu trắng, không chịu nhuộm màu. Một nghìn bốn trăm năm, bốn bộ chúng như kẻ thợ săn, ưa thích sát hại chúng sinh, tham lam bán những đồ vật của Tam bảo. Một nghìn năm trăm năm sau, tại nước Câu-thiểm-di có tì-kheo Tam Tạng giảng pháp yếu rất giỏi Theo thường lệ, ngày mười lăm sau khi bố-tát, tì-kheo a-la-hán thăng tòa thuyết giới thanh tịnh, nói đây là những điều nên làm, đây là những điều không nên làm. Đệ tử của tì-kheo Tam Tạng nói với tì-kheo a-la-hán:
– Hôm nay thân miệng ý của ngài không thanh tịnh, cớ sao lại nói những lời thô này?
Tì-kheo a-la-hán đáp:
– Từ lâu thân khẩu ý, nghiệp của ta đã thanh tịnh, không còn tạo các lỗi lầm.
Đệ tử của tì-kheo Tam Tạng nghe như vậy, càng tức giận hơn, giết chết vị ấy ngay trên tòa. Thấy vậy, đệ tử tì-kheo a-la-hán nói:
– Những lời thầy ta nói đều hợp với chân lí, cớ sao các ông lại giết hòa thượng của ta?
Nói rồi, các đệ tử ấy liền lấy dao bén giết tì-kheo Tam Tạng. Thấy cảnh tượng ấy tám bộ trời, rồng… đều sầu não, còn ác ma Ba-tuần và các ngoại đạo thi rất vui mừng, đua nhau đến phá chùa tháp, giết hại tì-kheo. Bấy giờ tất cả kinh tạng đều dời đến Cưu-thi-na, rồi long vương A-nậu-đạt mang tất cả cất dưới long cung. Vì thế Phật pháp mới diệt tận. nghe xong Ma-ha Ma-da buồn rầu rơi lệ nói kệ.
Tất cả đều hủy diệt,
Không nơi nào thường an
Tu-di và biến lớn
Kiếp tận cũng tan, cạn
Giàu mạnh ở thế gian
Cũng có lúc suy bại.
Con của ta khi xưa
Siêng năng tu vạn hạnh
Thành tựu Đẳng Chánh Giác.
Vì chúng tuyên pháp tạng,
Cớ sao đến lúc ấy,
Chính pháp đều diệt tận?
98.4. ĐỘ NGƯỜI NỮ
Luật Thiện kiến ghi: “Do độ người nữ xuất gia, nên chính pháp chỉ được trụ thế năm trăm năm. Vì thế Đức Thế Tôn chế tì-kheo ni phải thực hành bát kinh pháp, nhờ thế chính pháp mới được trụ thế một nghìn năm.
Hỏi: Vậy qua một nghìn năm chính pháp sẽ diệt hết sao?
Đáp: Không phải diệt hết mà trong một nghìn năm đó, vẫn có người đắc tam đạt trí. Lại trong một nghìn năm nữa có người đoạn được ái, chứng A-la-hán, nhưng không có tam đạt trí. Một nghìn năm nữa có người đắc quả A-na-hàm, một nghìn năm nữa vẫn có người đắc quả Tư-đà-hàm, một nghìn năm nữa có người đắc quả Tu-đà hoàn. Tổng cộng được một vạn năm, năm nghìn năm đầu rất nhiều người đắc đạo, nhưng năm nghìn năm sau, nhiều người tu học nhưng không ai đắc đạo. Sau một vạn năm tất cả kinh điển văn tự đều diệt mất, người xuất gia chỉ còn hình tướng cạo tóc, đắp ca-sa mà thôi”.
Kinh Ti-ni-mâu ghi: “Tôn giả Ca-diếp trách ngài A-nan mười điều về việc cầu xin cho người nữ xuất gia trong Phật pháp:
1. Nếu người nữ không xuất gia, các đàn việt đều chuẩn bị đầy đủ thức ăn, quì bên đường cúng dường sa-môn.
2. Nếu người nữ không xuất gia, các đàn việt thường đón đường thỉnh các sa-mồn thụ nhận ỵ phục, ngọa cụ.
