Home / Pháp Uyển Châu Lâm / PUCL - Tập 7 / PUCL QUYỂN 92 – CHƯƠNG LỢI HẠI

PUCL QUYỂN 92 – CHƯƠNG LỢI HẠI

Thấy như vậy, Tăng Hộ hỏi: ‘Các vị là ai mà chịu khổ như vậy?’. Đáp: ‘Khi còn làm người ở cõi Diêm-phù-đề, bản tính chúng tôi bất tín. Ngài có thể đến hỏi đức Thế Tôn’.
Quá kinh sợ, Tăng Hộ tiến về phía trước thì thấy từ xa một khu rừng xanh tốt đáng ưa, liền đi đến. Sau khi vào rừng, Tăng Hộ thấy năm trăm vị tiên đang dạo chơi. Vừa thấy Tăng Hộ, các vị tiên liền chạy khắp nơi lẩn tránh. Họ nói với nhau:
– Đệ tử Thích-ca làm ô uế khu vườn của chúng ta!
Tăng Hộ xin các tiên nhân cho mình mượn một gốc cây để tạm trú qua đêm, sáng mai sẽ rời khỏi. Một vị thượng tọa trong số tiên nhân có lòng từ bi, đồng ý cho Tăng Hộ mượn. Thế là Tăng Hộ trải ni-sư-đàn, ngồi kết già. Vào đầu đêm thì chế phục năm cái, đến nửa đêm thì ngủ nghỉ; cuối đêm lại kết già, lớn giọng tán tụng kinh điển. Các tiên nhân nghe tiếng tán tụng, ngộ giải tính không, chứng quả Bất hoàn, thấy rõ tam pháp ấn, lòng vô cùng vui mừng, đến chỗ sa-môn chí thành đỉnh lễ cầu thụ Tam qui, đồng thời xin xuất gia trong Phật pháp.
Tăng Hộ liền như pháp độ các tiên nhân, chỉ dạy pháp thiền. Không bao lâu họ đều chứng quả A-la-hán. Như rừng chiên-đàn, cây chiên-đàn tự vây quanh lẫn nhau, tì-kheo đắc đạo có hiền thánh làm chúng đệ tử.
Bấy giờ Tăng Hộ và các đệ tử đến tinh xá Kì-hoàn, đầu mặt lạy chân Phật rồi đứng qua một bên. Thế Tôn thăm hỏi các tì-kheo:
– Các ông đi đường có mệt nhọc, gian khổ không?
Tăng Hộ bạch:
– Chúng con không quá mệt nhọc, khất thực cũng dễ được, chẳng phải khó khăn gì mà nay đã được gặp Thế Tôn.
Sau khi Thế Tôn thuyết pháp cho đại chúng tì-kheo nghe, Tăng Hộ cất cao giọng thuật lại nhân duyên thấy địa ngục lúc trước. Đức Phật bảo Tăng Hộ:
– Phòng tắm mà ông thấy đó chẳng phải thật, mà là địa ngục. Các phi nhân này là những kẻ đã xuất gia làm tì-kheo vào thời Phật Ca-diếp, nhưng không giữ giới luật, buông lung tâm ý, tùy tiện sử dụng các đồ vật và dụng cụ tắm của chư tăng; các vị tì-kheo trì luật dạy về phép tắc, oai nghi thì họ lại không tuân theo. Từ khi Phật Ca-diếp niết-bàn, các người này chịu khổ trong địa ngục, đến nay chưa từng dừng nghỉ. Ngôi chùa và các tì-kheo mà ông thấy đó, thật chẳng phải là chùa cũng chẳng phải tì-kheo mà là địa ngục. Những người này đã xuất gia làm tì-kheo vào thời Phật Ca-diếp, nhưng không thành tựu năm đức, âm thầm cùng tăng thường trụ sử dụng vật của tăng bốn phương, chứ không chịu đánh kiên chùy nhóm chúng thập phương để cúng dường. Vì nhân duyên này nên bị lửa đốt cháy giường nằm, chịu khổ đến hôm nay vẫn chưa dứt.
Ngôi chùa thứ hai cũng chẳng phải là chùa và tăng mà là địa ngục và chúng sinh trong đó. Những người này, vào thời Phật Ca-diếp đã xuất gia làm tì-kheo, nhưng không đủ năm đức. Có đàn việt xây dựng chùa tháp, cúng dường bốn nhu cầu cần thiết cho tăng. Lúc đàn việt này mới phát tâm xây dựng chùa, đã tổ chức trai hội, muốn đánh kiền chùy nhóm họp chúng tăng cúng dường, nhưng tì-kheo này đã âm thầm thụ dụng riêng. Những khách tăng đến đều không được thức ăn, đành mang bát không trở về. Do nhân duyên này mà tì-kheo kia phải bị nằm trên giường sắt nóng, dùng tay tự cào cấu thân mình, khiến gân thịt tiêu hết, xương như tim đèn cháy rực, đến nay vẫn không tắt.
Ngôi chùa thứ ba cũng chảng phải là chùa và tăng mà là địa ngục và chúng sinh trong đó. Những người này đã xuât gia làm tì-kheo vào thời Phật Ca-diếp, nhưng đều biếng nhác. Họ nói với nhau: ‘Để đúng pháp, hôm nay chúng ta nên thỉnh một vị tì-kheo trì luật cùng thực hiện pháp sự’. Thế là họ thỉnh một vị tì-kheo có hạnh thanh tịnh đến ăn ở và sinh hoạt chung. Nhưng vị tì-kheo này lại tìm đến thêm những người đồng hạnh. Dần dần số lượng tì-kheo thanh tịnh ngày càng đông, vì thế các tì-kheo biếng nhác đuổi họ ra khỏi chùa. Lúc ấy có tì-kheo phá giới, trong đêm phóng hỏa đốt chùa, giết chết các tì-kheo. Do nhân duyên này, nên sau khi chết họ người ấy rơi vào địa ngục, tay luôn cầm dùi sắt nóng đâm xiên lẫn nhau, chịu đau khổ cùng tột, cho đến hôm nay vẫn chưa dứt.
Ngôi chùa thứ tư cũng chẳng phải là chùa và tăng mà là địa ngục và chúng sinh trong đó. Những người này, vào thời Phật Ca-diếp đã xuất gia làm tì-kheo, thường trụ trong chùa. Có đàn việt cúng các loại thức ăn cho tăng hiện tiền. Bấy giờ có một khách tăng đến, các tăng cựu trụ vì tâm bọn xẻn, nên đợi vị này đi khỏi mới phân chia. Nhưng chưa kịp chia thì trong thức ăn đã thối rửa, xuất hiện giòi bọ, thế là đành phải ném bỏ. Do nhân duyên này, sau khi chết họ phải rơi vào địa ngục ăn phân, uống nước tiểu, cho đến hôm nay vẫn chưa thôi dứt.
Ngôi chùa thứ năm cũng chẳng phải là chùa và tăng mà là địa ngục và chúng sinh trong đó. Những người này, vào thời Phật Ca-diếp đã xuất gia làm tì-kheo, trong giờ ngọ trai không thụ thực đúng pháp, miệng luôn mắng chửi. Do nhân duyên này, sau khi chết họ rơi vào địa ngục, nằm trên giường sắt nóng, gân thịt tiêu tan, bộ xương như tim đèn cháy rực, đến nay vẫn chưa thôi.
Ngôi chùa thứ sáu cũng chằng phải là chùa và tăng mà là địa ngục và chúng sinh trong đó. Những người này, vào thời Phật Ca-diếp đã xuất gia làm tì-kheo. Khi có người cúng dường thức uống, không chịu đánh kiền chùy, mà im lặng cùng dùng thức uống của chúng tăng, vì sợ tăng bên ngoài đến. Do nhân duyên bỏn xẻn, nên sau khi chết những người này rơi vào địa ngục uống nước đồng sôi, đến hôm nay vẫn chưa đứt.
Đức Phật lại bảo Tăng Hộ:
– Những chúng sinh ông thấy trong địa ngục thứ nhất là những người đã xuất gia vào thời Phật Ca-diếp. Vì gieo trồng trong ruộng đất của tăng đế dùng riêng mà không trả giá trị thuê đất, cho nên sau khi chết phải rơi vào địa ngục đến nay vẫn chưa thoát.
– Những chúng sinh ông thấy trong địa ngục thứ hai là những cư sĩ vào thời Phật Ca-diếp. Vì gieo trồng trong ruộng đất của tăng để dùng riêng mà không trả giá trị thuê đất, cho nên sau khi chết phải rơi vào địa ngục làm vùng đất bàng thịt, chịu đau vô lượng khổ đau, đến nay vẫn chưa thoát.
– Cái hũ bằng thịt thứ nhất mà ông thấy đó, thật chẳng phải là hũ thịt mà là một người tội. Vào thời Phật Ca-diếp, người này là một vị thượng tọa trong tăng, nhưng không tọa thiền, không hiểu giới luật, chỉ biết ăn no ngủ kĩ, luận bàn những điều vô ích. Có những món ăn ngon thí chủ cúng dường thì tự tiện dùng trước. Do nhân duyên này, sau khi chết họ rơi vào địa ngục, biến thành một cái hũ thịt, bị lửa thiêu đốt thống khổ vô cùng, đến hôm nay vẫn chưa thoát.
Cái hũ bằng thịt thứ hai mà ông thấy, thật chẳng phải là hũ thịt mà là một người tội. Ngày xưa người này đã xuất gia làm tì-kheo, khi làm quản trù cho tăng, nếu có người cúng dường món ngon thì tùy tiện thụ dụng trước, những món dở thì chia cho tăng. Do đó phải làm cái hũ thịt bị lửa thiêu đốt, chịu vô lượng khổ đến nay vẫn chưa thoát,
Cái hũ bằng thịt thứ ba mà ông thấy, thật chẳng phải là hũ thịt mà là một người tội. Ngày xưa người này là cư sĩ, khi làm quản trù cho tăng, nếu gặp món ngon thì tùy tiện thụ dụng trước, hoặc cho vợ con mình, còn những món dở thì chia cho tăng. Do nhân duyên này, sau khi chết, họ phải rơi vào địa ngục làm cái hũ thịt lớn, bị lửa thiêu đốt, chịu vô lượng khồ đến nay vẫn chưa thoát.
Cái bình bằng thịt thứ nhất mà ông thấy chẳng phải là bình thịt mà là một người tội trong địa ngục. Vào thời Phật Ca-diếp, người này xuất gia, khi làm quản trù tăng, món ăn này đáng lẽ cho tăng dùng vào buổi sáng thì lại để qua hôm sau; thức ăn cho hôm sau lại chuyền qua ngày sau nữa. Do nhân duyên này, sau khi chết, họ phải rơi vào địa ngục làm cái bình thịt, bị lửa thiêu đốt, chịu vô lượng khổ đến nay vẫn chưa thoát.
Cái bình bằng thịt thứ hai mà ông thấy, thật chẳng phải là bình thịt mà là một người tội. Ngày xưa người này đã xuất gia làm tì-kheo, khi có đàn việt cúng dường sữa tô cho tăng hiện tiền, lẽ ra phải phân chia cho mọi người, nhưng tì-kheo này thấy có khách tăng đến, vội để lại, đợi sau khi vị khách tăng ra đi mới phân chia. Do nhân duyên này, sau khi chết, những người này phải rơi vào địa ngục làm cái bình thịt lớn, bị lửa thiêu đốt, chịu vô lượng khổ đến nay vẫn chưa thoát.
Người mà ông thấy đứng trong dòng suối là môt vị tì-kheo lo việc cung câp nước cho chư tăng vào thời Phật Ca-diếp. Người này thấy chư tăng dùng nước nhiều quá, nên thấy nơi nào vừa ý thì cung cấp đầy đủ, còn những nơi khác thì không cho. Do nhân duyên này, sau khi chết, những người này phải rơi vào địa ngục, một mình đứng trong dòng suối mà kêu gào: Nước! Nước!’ chịu vô lượng thống khổ, đến nay vẫn chưa thoát.
Cái vò bằng thịt lớn mà ông thấy cũng là một người tội ở địa ngục. Vào thời Phật Ca-diếp người nạy đã xuất gia làm tì-kheo lo về hoa quả cho tăng. Nếu đàn việt cúng dường trái thơm ngon thì tự tiện dùng trước, những quả đắng chát thì chia cho tăng, hoặc chọn những quả ngon cho những người thuận ý mình. Vì tâm không bình đẳng, nên sau khi chết, người này phải rơi vào địa ngục biến thành vò thịt lớn, bị lửa thiêu đốt, chịu vô lượng khổ, đến nay vẫn chưa thoát.
Người cầm dao tự cắt mũi mình cũng là một người xuất gia vào thời Phật Ca-diếp. Ngày ấy người này khạc nhổ trong vùng đất thanh tịnh của Phật và tăng. Cho nên

About namcuulong

Check Also

PUCL QUYỂN 97 – CHƯƠNG TỐNG CHUNG

ỌUYỂN 97 Quyển này có một chương Tống chung. 97. CHƯƠNG TỐNG CHUNG 97.1. LỜI ...

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *