Oai linh đức cả đã thành vô biên !
Nay con dâng tấm lòng thiền
Quy y với Phật, sám liền tội căn,
Phước lành con có chi chăng,
ít nhiều quyết cũng nguyện rằng về Tây.
Nguyện cùng với bạn tu đây,
Tùy thời cảm ứng hiện ngay điềm lành,
Biết giờ, biết khắc rõ rành,
Lâm chung tạn mặt cảnh lành Tây phương.
Thấy nghe chánh niệm hơn thường,
Vãng sanh Lạc quốc đồng nương hoa vàng,
Hoa nở thấy Phật rõ ràng,
Thoát vòng sanh tử, độ an muôn loài.
Phiền não vô tận, thệ dứt trừ,
Pháp môn tu học, chẳng còn dư,
Chúng sanh nguyện độ, bờ kia đến,
phật đạo cùng nhau chứng trí như.
Hư không cõi nọ dẫu cùng,
Nguyện con còn mãi chẳng cùng chẳng thiên.
Không tình cùng có đồng nguyền,
Trí mầu của Phật đồng viên đồng thành.
SÁM PHỔ HIỀN (nghĩa)
Nay con lại nguyện tu hành,
Phổ Hiền nguyện lớn sẵn dành mười môn :
Một, là nguyện lạy Thế Tôn,
Hiện thân trước Phật hết lòng kính tin.
Hai, khen Phật đức rộng thinh,
Lời hay, tiếng tốt tận tình ngợi ca.
Ba, thời sắm đủ hương hoa,
Tràng phan bảo cái dâng ra cúng dường.
Bốn, vì mê chấp lầm đường
Tham sân nghiệp chướng con thường sám luôn.
Năm, suy công đức vàn muôn
Của phàm của Thánh con đồng vui ưa.
Sáu, khi Phật chứng Thượng thừa
Pháp mầu con thỉnh đã vừa truyền trao.
Bảy, lòng chẳng chút lãng xao,
Cầu xin chư Phật chớ vào Vô dư!
Tám, thường tu học Đại thừa
Bao giờ bằng Phật mới vừa lòng con.
Chín, thề chẳng dám mõi mòn,
Dắt dìu muôn loại đều tròn Pháp thân,
Mười, đem tất cả công huân,
Mọi loài cùng hưởng, khắp trần cùng vui.
Mười điều nguyện lớn nguyện rồi,
Nguyện về Cực Lạc nguyện ngồi tòa sen.
HỒI HƯỚNG
Phúng Kinh công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước giai hồi hướng
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh
Tốc vãng vô lượng quang Phật sát
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu,
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ,
Thế thế thường hành Bồ Tát đạo,
Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung,
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu,
Hoa khai kiến Phật ngộ Vô sanh,
Bất thôi Bồ Tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công đức
Phổ cập ư nhứt thiết
Ngã đẳng dữ chúng sanh
Giai cộng thành Phật đạo.
PHỤC NGUYỆN
A Di Đà Phật thường lai hộ trì, linh ngã thiện căn, hiện tiền tăng tấn, bất thất tịnh nhơn. Lâm mạng chung thời, thân tâm chánh niệm, thị thính phân minh, diện phụng Di Đà, dữ chư Thánh chúng, thủ chấp kim đài, lai nghinh tiếp ngã, nhứt sát na khoảnh, sanh tại Phật tiền, cụ Bồ Tát đạo, quảng độ chúng sanh, đồng thành chủng trí.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế giới, Đại từ Đại bi A Di Đà Phật (1 lạy)
Nam mô Tây phương Cực Lạc Thế giới, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1 lạy)
Nam mô Tây phương Cực Lạc Thế giới, Liên Trì Hải Hội Phật, Bồ Tát, nhứt thiết Hiền Thánh chúng chư Thượng Thiện Nhơn. (1 lạy)
Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải Đại đạo, phát Vô thượng tâm.
Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập Kinh tạng, trí huệ như hải. (1 lạy)
Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thông lý Đại chúng, nhứt thiết vô ngại. (1 lạy)
THÍCH NGHĨA
(1) Trời Đao Lợi : Là từng trời thứ hai trong 6 từng trời ở cõi Dục. Đao Lợi là tiếng Phạn, dịch là “Tam thập tam” nghĩa là ba mươi ba, từng trời này tại núi Tu Di nơi đó chia ra làm 33 nước trời, 32 nước ở bốn phương xung quanh, mỗi phương 8 nước; chính giữa là Thiện Kiến thành, cung của trời Đế Thích, vị trời này quyền thống nhiếp cả 33 nước trời.
Đương thời đó Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngự tại cung Trời này mà thuyết pháp trong 3 tháng (từ tháng 4 đến tháng 7) Thánh mẫu là bà Ma Gia phu nhơn sanh mẫu của Thái tử Sĩ Đạt Ta. Bảy ngày sau khi hạ sanh Thái tử, bà bỏ thân người sanh lên cõi trời Đao Lợi. Bấy giờ, Đức Phật sắp nhập diệt, ngài ngự lên đó nói pháp, trước để đáp ơn sanh thành, sau nhơn đó mà giáo hóa hàng chư Thiên, cùng Long, Thần bát bộ và cả thảỵ Thánh, phàm.
(2) Vô lượng, vô biên, vô số, bất khả thuyết, bất khả thuyết, bất khả tư nghị v.v… Đều là những con số lớn thường dùng bên Thiên Trúc.
(3) Đời ác ngũ trược : Là hiện thời đủ cả 5 điều nên thành đời ác.
1. Kiếp trược: Thời gian biến đổi không ngừng, có đủ 4 món trược dưới đây.
2. Kiến trược : Sự thấy biết sai lầm, tin nhân tà vạy chính là món “lợi sử” vậy.
3. Phiền não trược : Tham, sân hừng hẩy, si mê, điên đảo V.V.. chính là những tánh về “độn sử” vậy.