vật liệu làm các loại hoa như báu vật, gạo miến, bạch lạp, chì thiếc, vải lụa nhiều màu sác. Do việc này mà có những tăng tục, người giàu sang quyền quí chê trách: “Vì mẹ của tôn giả Mục-kiền-liên sinh vào loài ngạ quỉ, nên Đức Phật dạy phải cúng dường Phật và tăng thức ăn thức uống thơm ngon. Vì sao lại cúng các loại hoa báu và các vật khác? Phật và tăng có thể ăn được hoa và các vật này chăng?
Đáp: Không nên vì mình thấp hèn mà làm ngại phúc lớn của người khác. Như kinh Đại bồn ghi: “Vua Bình-sa tạo năm trăm bát vàng đựng đầy hoa đủ màu, năm trăm bát bạc đựng bạch đàn hương nghìn sắc, năm trăm bát lưu li đựng hương tử kim nghìn sắc, năm trăm bát xa cừ đựng hoa sen vàng nghìn sắc, năm trăm bát mã não đựng hoa sen đỏ nghìn sắc, năm trăm bát san hô đựng thanh mộc hương nghìn sắc, trăm bát hổ phách đựng hoa sen trắng nghìn sắc. Vua kiểm xét thấy đã đúng như pháp, liền sai vị quan nắm binh quyền chuẩn bị mười bốn vạn quân binh hộ tống đến chùa Kì-hoàn lễ Phật dâng những các phẩm vật ấy cùng bồn và bát bảy báu cúng dường Phật, tăng. Sau khi tất cả thụ dụng xong, vua trở về bản quốc. Nhờ đó cha mẹ trong bảy đời của vua thoát khổi tội sinh tử trong bảy mươi hai kiếp.
Kế đó, cư sĩ là Tu-đạt, Tì-xá-khư-mẫu, hai trăm ưu-bà-di, rồi vua Ba-tư-nặc cùng phu nhân Mạt-lợi tuyên bố trong nước y theo pháp dâng bồn của ngài Mục-kiền-liên mà tạo bồn cúng dường. Mỗi mỗi đều dùng bồn bàng tử kim, hoàng kim, chứa đầy các thức ăn thức uống thượng hạng, lại dùng năm trăm xe bằng vàng ròng chở đầy các vật cần dùng của tăng. Mọi việc đã xong, tât cả tập hợp đến trước vua và phu nhân. Hai người thấy đã đúng như pháp, liền chuẩn bị xa giá cùng với mười tám vạn quân binh đến trụ xứ của Phật. Sau khi đã dâng một nghìn xe bằng vàng ròng chở các vật dụng và một nghìn bồn thức ăn thức uống, vua và phu nhân đỉnh lễ Phật rồi trở về. Do công đức này mà cha mẹ bảy đời của vua thoát khỏi tội sinh tử trong bảy mươi hai kiếp.
Hỏi: Như trước đã định, y theo kinh, thí chủ được phép dùng bồn báu và hoa báu cúng dường Phật tăng. Nhưng nếu không có thí chủ lo liệu, có được dùng phần của tăng thường trụ tạo hoa báu cúng dường chăng?
Đáp: Việc này cũng cần xem xét đúng lúc đúng thời, cân nhắc những lợi hại trước mắt. Nếu chùa nhỏ, không có hàng tôn quí thế lực giàu sang bảo trợ, lại không có thí chủ bên ngoài cúng dường, thì không nên dùng phần của tăng thường trụ để tạo các loại hoa quí cúng Phật. Nếu có hoa trồng trên đất của tăng, thì được phép dùng cúng Phật.
Luật Thập tụng ghi: “Được phép dùng hoa trồng trong vườn của tăng dâng cúng tháp Phật. Nếu có trái thì bảo người hái cúng cho tăng dùng”.
Luận Tì-ni-mẫu ghi: “Nếu đã phân xử đất trồng cây, mai sau cây lớn, được dùng sửa phòng tăng, không cần bạch tăng nữa. Nếu muôn dùng cây gỗ của tăng sửa tháp Phật, thì nên yết-ma, tăng đồng ý thì được dùng”.
Cho nên kinh Bảo ấn ghi: “Nếu dùng phần của tăng để tu bổ tháp Phật, cần phải y qui định, thực hiện pháp yết-ma, tăng chấp thuận mới lấy dùng, nếu không thuận thì khuyên tín thí phát tâm tu bô”.
Luận Tát-bà-đa ghi: “Đất đai của tăng bốn phương, nếu tăng không thuận thì không được làm tháp Phật hoặc vì Phật mà trồng hoa, cây trái trên đó. Nếu được tăng phân chia, thì cho phép tùy ý cúng dường. Nếu hoa quá nhiều, thì tùy ý cúng dường.”
Kinh Bảo ấn ghi: “Nếu thí chủ xây dựng chùa viện cúng dường, khi đã giao cho tăng rồi thì không được can dự vào nữa. Nếu thí chủ muốn lấy lại tiền tài, vật dụng thì phải trả lại cho tăng gấp bảy lần. Khi lập chùa mới, vị tì-kheo chủ trì phải thưa tăng: ‘Những hoa quả trồng trong chùa dành dâng cúng Phật; cành lá và hạt thì tăng hiện tiền sử dụng đồng thời cũng thí cho tất cả chúng sinh’. Nếu không thưa trước như vậy, sau này bất kể tăng tục, hễ ai dùng thì phạm tội”.
Luận rằng: Đã biết vật của Tam bảo mỗi mỗi riêng biệt, không được sử dụng lẫn lộn. Khi xây dựng chùa viện, nên lập điện Phật và phòng tăng ở hai nơi khác nhau. Như chùa lớn, lập riếng tháp thờ Phật, tất cả những cây trái trồng trong khuôn viên tháp, thì sử dụng cho tháp. Ngoài khuôn viên này thì thuộc tăng. Cho nên luật Thập tụng ghi: “Đức Phật cho phép nuôi người công quả cũng như voi ngựa, trâu dê trong chùa viện và tháp Phật, nhưng mỗi mỗi đều có chủ quản, không được dùng lẫn lộn”.
Luận Tát-bà-đa ghi“Nếu chùa viện trải qua thời gian hoang phế, không biết hỏi ai để phân biệt phần ruộng vườn của Phật, pháp, tăng, thì cần phải nhóm tăng lấy ý kiến. Nếu tăng chấp thuận thì tùy ý phân xử. Nếu nguồn nước của tháp, do công đức thuộc về tháp tạo, nếu tăng sử dụng thì phạm tội nặng. Nếu do công sức của tăng, thì tăng được dùng, nhưng phải lượng vừa đủ, nếu nhiều quá thì phạm tội nặng”.
Trên đây là nói về các ngôi chùa nhỏ, không có ngoại duyên trợ giúp, nên theo đó mà hành sự. Còn như các ngôi chùa lớn do quốc gia xây dựng, đã được triều đình chu cấp riêng, lại được ban cho điền trang, rồi các quan lại, người giàu sang quyền quí đến chùa ngày càng nhiều. Như vậy nếu không có phần sử dụng chung, lẽ nào không khoản đãi quan khách sao! Như ngày rằm tháng bảy, phẩm vật cúng dường trước Phật đâu được đơn sơ. Nếu không chuẩn bị nhiều thức ăn, thức uống, hoa quả cúng dường Phật mà chỉ thêm một chút thức ăn thường ngày dâng cúng, lỡ như hoàng thượng hỏi đến thì làm sao? Lại bị thế gian chê trách, cho rằng tăng bỏn xẻn, không bằng cư sĩ. Làm như vậy, chảng những không kính Phật, mà e ràng mai kia bị hoàng thượng trách tội. Đâu thể cứ cố chấp là phần của tăng thì không được cúng Phật. Đã biết như vậy, nếu không có phần chung cho Tam bảo, thì nên dùng phần của tăng thường trụ mua sắm hoa quả, sửa soạn thức ăn thức uống thơm ngon tuyệt hảo cúng dường Phật, khiến cho người đời thấy vậy khởi tâm sinh thiện diệt ác; làm như thế cũng không tổn hại gì. Dùng phần của tăng cúng Phật, tuy không thể cứu độ thân thuộc kẻ còn người mất, nhưng tránh được tội bị người đời cười chê.
Luật Ngũ phần ghi: “Có người thế tục vào chùa gặp lúc chư tăng thụ thực, nhưng tăng không cho, bị họ chê trách, phỉ báng. Đức Phật biết được, cho phép tăng thí thức ăn. Bấy giờ chư tăng đã cho, nhưng dùng chén bát thô xấu đựng thức ăn, họ lại nổi giận. Phật lại dạy nên dùng chén bát tốt”. Đây là do vị tăng tri sự Ma-ma-đế… gặp việc cân nhắc, hành sự đúng phép, mới hợp ý Phật; không được đánh đồng, khư khư cố chấp. Cho nến luật Ngũ phần lại ghi: “Dù là Ta bảo, nhưng ở những nơi không thanh tịnh, không đi cũng không phạm lỗi. Tuy Ta không bảo, nhưng ở những nơi thanh tịnh, nhất định phải đến”.
Kinh Phật thuyết trừ tai hoạn ghi: “Lúc ấy nước Duy-da-li bị thời khí độc hại, rất nhiều người tử vong vì dich bệnh, nhưng không biết phải làm sao. Vua quan nhóm họp nghị bàn, vua nói: “Đât nước gặp tai họa, bị tà độc xâm hại, lửa dịch bệnh thiêu đốt khiến vô số người chết, chúng ta nên tìm cách nào để trừ tai họa này?’. Có người bàn nên lập đàn tế tự tại cổng thành; có người lại bảo nên lập đàn nơi ngã tư đường lớn trong thành để cúng tế trừ tai họa. Lúc ấy trong hội có trưởng giả Đàn-ni {Hán dịch: Tài Minh), đã thụ năm giới của Phật, thực hành mười điều thiện, ông nói:
– Xin nghe tôi nói! Đất nước đang gặp tai họa, đã có vô số người chết. Theo như cách các vị đã bàn, đó là sát hại chúng sinh để cứu mạng mình; đâu được như vậy! Vì đời trước đã tạo nhiều việc bất thiện, nên nay phải gặp tai ách này. Chúng ta nên lập phương tiện, dùng thiện trừ ác, mong vĩnh viễn không còn khổ đau; chứ sao làm ngược lại là hại vật cầu an, để rồi phải mãi mãi chịu khổ, không có ngày thoát!
Nghe thế, có người hỏi trưởng giả:
-Vậy chúng ta phải làm sao?
Đàn-ni đáp:
– Hiện ở đời có một vị hiệu là Phật, thầy của trời người trong tam thiên đại thiên thế giới, Ngài thương xót che chở và bảo vệ tất cả chúng sinh, một mình dạo đi trong ba cõi, nếu được Ngài hạ cố đến nước ta, nhất định sẽ trừ được tai họa, khiến người và vật an lành.
Mọi người nghe trưởng giả trinh bày, đều khen ngợi và nói:
– Như lời ngài dạy, chúng tôi rất vui mừng; nhưng Phật hiện đang an trú tại thành Vương Xá của vua A-xà-thế. Chúng ta đang có chút hiềm khích với nước này, chắc họ không cho Ngài đến đây.
Đàn-ni nói:
– Đức Phật xuất hiện ở đời với bản hoài cứu khổ, giống như hư không chẳng có gì ngăn ngại, như ánh sáng mặt trời tất cả mọi loài đều được chiếu soi. Đức Phật xót thương lân bang gặp nguy ách, nhất định Ngài sẽ đến, không cần phải nghi ngờ. Nhưng cần phải sai sứ mang nhiều đồ vật sang cống nạp và tạ lỗi với vua A-xà-thế, mong cầu hai nước hòa hiếu.
Nghe trưởng giả nói, vua quan đều đồng ý và nói:
– Chỉ có thanh tín sĩ trưởng giả Tài Minh, đệ tử của Phật mới có thể làm sứ giả mà thôi!
