làm lạ đến hỏi Phật. Phật đáp: ‘Ông hãy đến hỏi ngục tốt!’. Nan-đà liền đến hỏi ngục tốt:
– Những chảo sôi để trị người tội, tại sao chảo sôi này không có người?
– Trong cõi Diêm-phù-đề, có một đệ tử Phật tên là Nan-đà, nhờ công đức xuất gia mà được sinh lên cõi trời, nhưng vì muốn bỏ đạo nên khi mạng chung ở cõi trời sẽ đọa vào địa ngục này. Vì thế nên tôi mới đun chảo này để chờ Nan-đà. Ngục tốt đáp.
Nghe xong, Nan-đà hoảng hốt sợ ngục tốt giữ lại, liền niệm: ‘Nam-mô Phật-đà. Nam-mô Phật-đà. Xin Phật bảo vệ dẫn con trở về Diêm-phù-đề’. Đức Phật nói:
– Ồng siêng năng giữ giới để tạo phúc sinh thiên chăng?
– Bạch Đức Thế Tôn! Con chẳng cần sinh thiên, nay chỉ xin chẳng bị đọa vào địa ngục_ Nan-đà đáp.
Đức Phật thuyết pháp cho Nan-đà nghe. Bảy ngày sau, Nan-đà chứng quả A-la-hán. Các tì-kheo ca ngợi:
– Thế Tôn ra đời thật là kì đặc, thật là hi hữu!
Đức Phật nói:
– Chẳng phải ngày nay Ta mới như thế mà vào quá khứ cũng đã như vậy.
– Bạch Đức Thế Tôn! Xin Ngài kể lại việc quá khứ cho chúng con. Các tì-kheo thưa.
– Thuở xưa, vua nước Ca-thi tên là Mãn Diện có oán thù với nước Tì-đề-hi. Nước Tì-đề-hi có một kĩ nữ vô cùng xinh đẹp hấp dẫn. Bấy giờ nịnh thần tâu lên vua Mãn Diện:
– Nước Tì-đề-hi có một kĩ nữ xinh đẹp, thế gian ít ai sánh bằng.
Nghe xong, vua liền ham muốn, sai sứ qua nước đó xin cưới cô kĩ nữ này. Vua nước đó không chấp nhận.Vua Mãn Diện lại sai sứ qua xin được gặp mặt kĩ nữ bốn năm ngày rồi sẽ đưa trở về nước. Vua nước Tì-đề-hi ra lịnh cho kĩ nữ:
– Ngươi phải trang điểm thật lộng lẫy để vua nước Ca-thi say đắm cô, không thể rời xa ngươi phút nào.
Thế là vua nước Tì-đề-hi cho kĩ nữ đi gặp vua Mãn Diện. Bốn năm ngày sau, vua nước Tì-đề-hi sai người báo:
– Vua nước tôi cần kĩ nữ này để cúng tế, xin vua tạm cho về, rồi sẽ đưa qua lại.
Vua nước Ca-thi liền cho phép kĩ nữ trở về. Cúng tế xong, vua Mãn Diện sai sứ qua đón. Vua nước Tì-đề-hi đáp: ‘Ngày mai sẽ cho về’. Đến ngày mai cùng chẳng thấy kĩ nữ đâu. Cứ như thế trải qua nhiều ngày, vì nhớ nhung kĩ nữ nên vua nước Ca-thichỉ muốn dẫn theo vài người qua nước kia. Các đại thần khuyên can, nhưng vua chẳng nghe theo.
Bấy giờ trên núi Tiên Nhân cổ một con khỉ chúa thông minh học rộng, hiểu biết mọi chuyện. Nhân vợ mới mất nên khỉ chúa lấy một con khỉ cái, làm cho bầy khỉ đều tức giận chê trách: ‘Này khỉ chúa! Khỉ cái này là của chung, tại sao ngươi lại độc chiếm?’.
Bấy giờ khỉ chúa dắt khỉ cái chạy vào cung điện nước Ca-thi, nhảy vào cung vua. Bầy khỉ cũng đuổi theo. Chúng tự do dỡ nhà, phá hoại tường thành khiến mọi người chẳng biết xử trí thế nào.
Vua nước Ca-thi nói với khỉ chúa:
– Tại sao ngươi không giao con khỉ cái lại cho bầy khỉ?
– Vợ tôi chết đi, tôi không còn vợ. Tại sao đại vương bảo tôi trả khỉ cái lại? Khỉ chúa đáp.
– Nay bầy khỉ của ngươi phá hoại, náo loạn nước trẫm, nhất định ngươi phải trả lại đi?
– Cứ để như vậy, chẳng được sao?
– Chẳng thể được.
Hai bên đối đáp qua lại vài lần như thế. Khỉ chúa nói:
– Trong cung có tám vạn bốn nghìn phu nhân mà đại vương không yêu thích, chỉ muốn đến nước giặc tìm cầu kĩ nữ. Nay tôi không vợ, chỉ muốn một khỉ cái này mà đại vương nói là chẳng thể được. Nhân dân đều nương tựa vào đại vương, sao lại vì một kĩ nữ màbỏ phế việc nước! Đại vương nên biêt, việc dâm dục vui ít khổ nhiều, cũng như cầm đuốc đi ngược gió. Kẻ ngu không ném đi thì nhất định sẽ bị cháy mặt. Dục là thứ bất tịnh như đống phân kia. Dục chỉ là hiện tướng bên ngoài được lớp da mỏng bao phủ. Dục không đáp ứng thỏa mãn như dùng phân bôi lên rắn độc. Dục như kẻ thù trá hình ở gần bên người. Dục như vay mượn, nhất định sẽ trở về chủ. Dục thật đáng gớm như hoa mọc ở nhà xí. Dục như người bị ghẻ lở hơ lửa, càng gãi thì càng ngứa. Dục như chó gặm xương khô, nước dãi tiết ra cho là có mùi vị, răng gãy miệng tổn thương mà không thỏa mãn. Dục như người khát uống nước mặn, càng tăng thêm cơn khát. Dục như miếng thịt, bầy chim tranh giành. Dục như cá tham mùi vị cắn nhau đến chết. Như vậy, họa của dục rất lớn!
Khỉ chúa thuở xưa chính là Ta, vua Mãn Diện chính là Nan-đà, kĩ nữ chính là Tôn-đà-lợi. Thuở ấy Ta kéo Nan-đà ra khỏi vũng bùn ái dục, nay cũng kéo ông ta ra khỏi khổ đau sinh tử.
Kinh Vị tằng hữu ghi: “Khi lên chín tuổi, La-hầu-la xuất gia làm sa-di. Vua sắc lịnh năm mươi vương tử theo La-hầu-la xuất gia. La-hầu-la thụ mười giới và tôn Xá-lợi-phất làm hòa thượng, Đại Mục-kiền-liên làm a-xà-lê. Chưa đầy ba năm sau, mẹ của La-hầu-la là Da-thâu-đà-la cũng xuất gia (chuyện ngàiDa-xá ghi: Sa-di,Trung Quốc gọi là người nhỏ tuổi mà đã làmviệc,lấy việc tu đạo làm sự nghiệp; lại dịch là tức từ, nghĩa là dứt tâm cấu nhiễm thế gian, dùng lòng từ cứu độ chúng sinh. Lại vì mới học Phật pháp nên lòng trần vẫn còn, cần phải dứt ác, tu từ).
Kinh Tăng nhất A-hàm ghi: “Đức Phật bảo các tì-kheo:
– Có bốn chủng tính xuất gia, không có chủng tính riêng, chỉ nói sa-môn là con của Thích-ca. Tại sao? Do ta sinh ra, do pháp mà thành tựu; cũng như bốn biển đều từ hồ A-nậu chảy ra.
Luật Sa-dỉ tắc ghi: “ Phật dạy:
– Này các tì-kheo! Tất cả người xuất gia đều bỏ họ riêng của mình mà xưng là sa-môn Thích tử.
Check Also
PUCL QUYỂN 21 – CHƯƠNG PHÚC ĐIỀN
QUYỂN 21 Quyến này gồm ba chương: Phú đức, Qui tín, Nam nữ thế gian. ...