trước kia, vị trời liền đến chỗ nhà vua, tự thân phát ra ánh sáng chiếu khắp hoàng cung. Nhà vua hỏi?
– Nàng là ai?
Vị trời đáp:
– Thiếp là Hữu Tướng, phu nhân của đại vương đây.
Nhà vua vui mừng nói:
– Xin nàng hãy đến đây ngồi!
Vị trời nói:
– Nay thiếp thấy đại vương hôi bẩn, không thể đến gần được, nhưng vì lời hứa trước đây, nên thiếp mới đến gặp đại vương.
Nghe xong, nhà vua hiểu ngay, liền than thở:
Vị trời này trước đây là vợ của ta, sau khi xuất gia một ngày thì được sinh lên trời, trở nên cao quí, nên vị trời ấy thấy ta thấp hèn. Tại sao nay ta không xuất gia? Ta từng nghe nói một móng tay của trời giá trị lớn bằng cả cõi Diêm-phù-đê. Đât nước này của ta đâu đáng tham tiếc!
Nói xong, nhà vua thoái vị nhường ngôi cho con, rồi xuất gia tu đạo, cuối cùng chứng được quả A-la-hán”.
Luận Đại trí độ có bài kệ:
Chim công dẫu thân hình sặc sỡ
Chẳng bằng hồng hạc thường bay cao.
Sống tại gia dẫu thật sang giàu,
Chẳng bằng xuất gia công đức cao.
Kinh Tạp thí dụ ghi: “Ngày xưa có hai anh em sống trong gia đình giàu sang, thế lực lớn, tiền của vô số, cha mẹ đều đã qua đời. Tuy là anh em, nhưng chí hướng của họ rất khác nhau. Người anh thích đạo pháp, còn người em thích mở mang gia nghiệp. Thấy anh mình không tha thiết đến gia nghiệp, người em giận và bảo:
– Cha mẹ qua đời rồi, là anh em với nhau, em siêng năng chăm lo cuộc sống gia đình, ngược lại, anh bỏ bê gia nghiệp, chỉ đi theo các sa-môn nghe giảng kinh Phật. Các sa-môn đâu thể cho anh áo cơm, tiền của. Anh cứ theo họ thì gia đình trở nên nghèo khó, tiền của ngày một tiêu hao, bị người chê cười cho là anh bỏ bê gia đình. Chỉ có nối tiếp giữ gìn gia nghiệp của cha mẹ mới là hiếu thôi!
Người anh đáp:
– Thụ trì ngũ giới, thập thiện, cúng dường Tam bảo, dùng thánh đạo giáo hóa người thân mới là hiếu. Đạo tục khác nhau là lẽ tự nhiên. Điều người xuất gia ưa thích là điều người đời chán ghét. Việc người đời quí trọng thì người xuất gia xem thường. Sự suy tính của người trí và kẻ ngu không giống nhau, như sáng và tối. Do đó, người trí thường bỏ chỗ tối, đến nơi sáng, vì chỉ có thánh đạo là chân thật cùng tột. Điều em ưa thích hôm nay chính là sự trá hình của đau khổ mà em đâu biết đó là khổ đau!
Người em tỏ vẻ tức giận, cúi đầu, không tin lời anh. Thấy thế, người anh bảo:
– Em ham mở mang gia nghiệp, cho tiền của là quí, còn anh thích tu học giáo pháp, nên cho trí tuệ là của báu. Xét ra, mạng người ở đời giống như cát bụi, vô thường chợt đến thì liền bị nghiệp tội vây trói. Vì thế, nay anh muốn lìa bỏ gia đình, lánh xa tham dục nguy hiểm, đến nơi an ổn, xuất gia qui y Tam bảo.
Thấy anh có ý hướng đến đạo pháp, người em im lặng. Thế rồi, người anh từ bỏ gia đình, xuất gia làm sa-môn, sớm tối tinh tiến tu tập, thiền tọa tư duy, thực hành đúng giáo pháp, nên thành tựu đạo quả và trở về nhà khuyên bảo em. Nghe xong, người em càng tức giận. Người em ham mở mang gia nghiệp, chưa bao giờ để tâm đến Phật pháp, về sau, người em qua đời, bị đọa làm con trâu rất to béo, được một lái buôn mua về dùng để kéo xe chở muối đi bán. Trải qua một vài chuyến buôn thì con trâu ấy gầy yếu, không còn khỏe mạnh như trước. Một lần nọ, khi vất vả vượt qua sườn núi, nó ngã khụy không đứng lên được. Người lái buôn ấy vung roi đánh, lay đầu mãi, nó mới cử động. Bấy giờ người anh đang bay trên hư không, nhìn thấy, liền hỏi con trâu:
– Nhà cửa, ruộng vườn của em đâu rồi mà nay phải làm thân trâu ở đây?
Người anh liền đùng uy thần giúp cho con trâu biêt kiếp trước của nó. Khi nhận biết rồi, nó tuôn lệ, tự trách:
– Do làm việc bất thiện, bỏn xẻn, tham lam, ganh ghét, xem thường thánh chúng, không tin Phật pháp, không tin lời anh, làm theo ý mình, cho nên phải đọa làm thân trâu cực nhọc, gầy yếu. Nay có hối hận cũng đâu kịp!
Biết lòng dạ con trâu đang đau xót, tái tê, người anh liền thuật đầu đuôi sự việc cho lái buôn trâu nghe. Nghe xong, người ấy liền trao con trâu cho người anh. Người anh dắt con trâu đến một ngôi chùa, dạy nó nhớ nghĩ đến Tam bảo, ăn uống đúng giờ. Sau khi chết, con trâu được sinh lên cõi trời Đao-lợi.
Lúc bấy giờ, các thương nhân đều nghĩ: “Chúng ta lâu nay lo làm ăn buôn bán, không biết bố thí, không biết đạo pháp, sợ rằng sau khi chết cũng sẽ giống như vậy!”. Thế rồi, họ từ bỏ vợ con, của báu xuất gia làm sa-môn. Nhờ tinh tiến tu tập không ngừng nên tất cả đều chứng đạo quả.
Vì thế, có thể thấy của cải, châu báu không có ích gì cho con người. Nếu cung kính thờ phụng Tam bảo, tu thân, học đạo thì đời đời được an vui”.
Kinh Phó pháp tạng ghi: “A-la-hán Xà-dạ-đa vừa dẫn các đệ tử đến thành Đức-xoa-thi-la thì bỗng tỏ vẻ buồn bã. Tiến thêm một quãng ngắn nữa, trông thấy một con quạ, tôn giả liền mỉm cười vui vẻ. Co một đệ tử xin ngài cho biết nguyên do. Tôn giả đáp:
– Lúc ta vừa đến đây, có một quỉ con đói khát dưới cửa thành thưa với ta: ‘Mẹ con vào thành tìm thức ăn, đã năm trăm năm rồi mà chưa trở về. Con đang bị cơn đói hành hạ sắp chết. Tôn giả vào thành nếu thấy mẹ con xin nói rằng con hiện đang đói khổ, xin hãy về sớm!’. Vừa vào thành thì thấy quỉ mẹ, ta liền báo cho nó biết ý nguyện quỉ con. Quỉ mẹ nói: ‘Tôi vào thành này đã năm trăm năm mà chưa kiếm được một chút đàm dãi nào của người. Tôi vừa mới sinh xong, còn ốm yếu, có tìm được chút đàm dãi nào thì liền bị các quỉ khác cướp lấy. Hôm nay, tôi vừa tìm được một chút đàm dãi, định ra ngoài thành cùng ăn với con, nhưng dưới cửa thành có nhiều quỉ thần mạnh mẽ. Tôi sợ nên không dám ra. Cúi xin tôn giả đưa giúp tôi ra khỏi thành!’,. Ta liền đưa quỉ mẹ ra ngoài thành để nó cùng ăn với quỉ con. Ta hỏi:
– Ngươi sinh vào thời nào?
Nó đáp:
Check Also
PUCL QUYỂN 21 – CHƯƠNG PHÚC ĐIỀN
QUYỂN 21 Quyến này gồm ba chương: Phú đức, Qui tín, Nam nữ thế gian. ...