– Hình ảnh Như Lai còn đẹp tuyệt nhu thế huống gì thân Phật thật. Nguyện trong đời vị lai con cũng thành tựu được thân vi diệu như thế.
Nói xong, Tinh Tiến lại suy nghĩ: ‘Nếu ta ở nhà thì không thể đạt được thân ấy’. Thế là, Tinh Tiến xin cha mẹ cho xuất gia. Cha mẹ đáp:
– Chúng ta nay tuổi đã già mà chỉ có một mình con, nếu con xuất gia thì cha, mẹ sẽ chết.
Tinh Tiến thưa:
– Nếu không cho phép con xuất gia thì từ hôm nay trở đi con không ăn, không uống, không ngủ nghi, cũng không nói năng.
Thề như thế xong, Tinh Tiến nhịn ăn một ngày, cho đến ngày thứ sáu. Bấy giờ, cha mẹ cùng với tám mươi bốn nghìn người quen biết và các mỹ nữ đều khóc thương. Cha mẹ liền cho phép Tinh Tiến xuất gia. Được xuất gia, Tinh Tiến mang pho tượng Phật vào núi, lấy cỏ làm tòa, ngồi kết già trước tượng, nhất tâm quán kỹ, thấy tượng vẽ không khác gì Như Lai chẳng giác, chẳng tri; tất cả các pháp cũng như thế, vô tướng, lìa tướng, thể tính rỗng lặng. Quán như thế qua một ngày một đêm, Tinh Tiến thành tựu ngũ thông, biện tài vô ngại, chứng Phổ Quang tam-muội, thân có hào quang rực rỡ. Tinh Tiến dùng thiên nhãn thanh tịnh nhìn thấy a-tăng-kì Phật ở phương đông, dùng thiên nhĩ thanh tịnh nghe nhận được hết mọi điều chư Phật nói. Suốt trọn bảy tháng, Tinh Tiến dùng trí làm thức ăn, tất cả chư thiên đều rải hoa cúng dường. Sau đó, Tinh Tiến rời khỏi núi, đến các xóm làng giảng pháp cho mọi người nghe. Có hai vạn chúng sinh phát tâm bồ-đề, vô lượng người trụ trong pháp Thanh văn và Duyên giác, cha mẹ và người thân đều không lui sụt đạo Vô thượng bồ-đề.
Đức Phật bảo ngài Ca-diếp:
– Bồ-tát Đại Tinh Tiến ngày xưa chính là Ta. Nhờ quán tượng Phật, nên nay Ta được thành Phật. Nếu có người nào hay tu học phép quán như thế thì đời vị lai hẳn sẽ thành tựu Vô thượng đạo”.
6.4. CẢM ỨNG
Từ khi Phật pháp truyền qua Đông Hán, rồi dần đến Nam Ngô, những linh ứng về tượng Phật đầy khắp trong thiên hạ. Tuy các sách ghi chép có sự thêm bớt chẳng giống nhau, nhưng điềm lành ứng hiện hầu như chẳng khác. Nay căn cứ theo thứ tự ghi chép chứ không phân chia theo triều đại. vì sao? Vì hoặc là tượng lập ở đời Tấn nhưng đến đời Tùy, Đường mới hiển linh, hoặc cảm hiện nơi người mà linh tích còn tiềm ẩn. Cho nên không thể sắp xếp theo thứ tự thời gian, chỉ y cứ từng chuyện để biên tập.
6.4.1. Đời Đông Hán, bức tượng họa Thích-ca ở Lạc Dương: Minh tường kỉ của Vươmg Diễm soạn vào đời Nam Tề ghi: “Hán Minh đế mộng thấy một vị thần cao gần hai trượng, thân màu vàng ròng, từ xa phát vầng ánh sáng như mặt trời. Vua hỏi về việc này, quần thần tâu:
– Ở phương tây có vị thần, gọi là Phật. Người vàng mà bệ hạ nhìn thấy trong mộng chắc là vị ấy.
Thế là, vua sai người đến Thiên Trúc vẽ hình Phật, biên chép kinh điển đem về truyền bá ở Trung Quôc. Từ thiên tử cho đến vưong hầu đều cung kính phụng thờ. Khi biết con người sau khi chết tinh thần không mất, không ai mà không lo sợ, hoang mang.
Sứ giả Thái Âm sang Tây Vực đã thỉnh được sa-môn Ca-diếp Ma-đẳng, lại thỉnh được tượng họa Phật Thích-ca ngồi, phỏng từ tượng do vua Ưu-điền tạc thuở trước. Vua thấy giống như tượng trong mộng, nên liền sai họa sĩ vẽ vài bức tôn trí trên đài Thanh Lương ở nam cung, và trên lăng Hiển Tiết tại cửa Cao Dương để cúng dường. Vua lại sai vẽ trên tường chùa Bạch Mã bức bích họa muôn nghìn xe ngựa nhiễu quanh tháp ba vòng, như các truyện đã ghi chép.
6.4.2. Đời Nam Ngô8, tượng Phật bằng vàng ở Kiến Nghiệp: Vào đời Ngô, Tôn Hạo phát hiện được một tượng Phật vàng tại vùng đất bằng ở hậu viên của hoàng cung tại Kiến Nghiệp. Tìm xét nguồn gốc của tượng, mới biết đây là tượng báu do vua A-dục đúc vào đầu đời Chu (1121-245BC) an trí ở Giang Phủ. Vì sao biết được? Vì từ đời Tần, Hán, Ngụy ở phương nam chưa có Phật pháp, làm sao có tượng chôn giấu dưới đất nơi đây?
Hạo được tượng, nhưng vốn không tin, không tôn kính, nên đặt tượng trong nhà xí để cầm thẻ vệ sinh.
Đến ngày mồng tám tháng tư, Hạo đến nhà xí đùa giỡn:
– Hôm nay ngày tám tháng tư, là ngày tắm Phật!
Rồi đi tiểu trên đầu tượng, lập tức Hạo bị bệnh phù thũng, chỗ kín càng đau nặng. Ông đau đớn gào thét.
Thái sử xem quẻ tâu:
– Do phạm tội với một vị thần lớn.
Hạo liền cúng tế thần miếu ở khắp nơi mà không ứng nghiệm. Một tì nữ trong cung vốn tin Phật, tâu:
– Phật là vị thần lớn, trước đây bệ hạ đã làm dơ uế tượng, nay nên mau cầu xin Ngài!
Vua tin theo lời tì nữ, cúi lạy quy y, thành khẩn sám hối, lát sau bệnh thuyên giảm. Ông liền dùng xe ngựa đón sa-môn Tăng Hội vào cung, nấu nước hương rửa tượng, tha thiết thành khẩn sám hối lỗi lầm và tạo nhiều công đức ở chùa Kiến Sơ thì bệnh đau chỗ kín dần hết.
6.4.3. Tây Tấn, tượng đá nổi trên sông lớn ở quận Ngô: Vào năm Kiến Hưng thứ nhất (313) thời Man Đê, ở vùng cửa Hổ Độc9, Tùng giang, quận Ngô, có ngư dân sinh sống. Một hôm, từ xa họ nhìn thấy có hai người đi dạo trên mặt biển. Nghi là thần biển nên họ rước thầy cúng và chuẩn bị vật tế lễ để ra đón. Bỗng nhiên sóng gió dữ dội, họ kinh sợ vội quay về. Bấy giờ, có môn đồ của Lão giáo thờ đạo Ngũ Đấu Mễ mách rằng:
– Đó là Thiên Sư10.
Rồi vị đó cùng với ngư dân đến nghinh đón, sóng gió lại nổi lên như trước. Có cư sĩ Châu Ưng ở làng Hoa, huyện Ngô thờ Phật, nghe thế liền nói:
– Đây chẳng phải là bậc Đại Giác giáng thế sao?
Ông bèn khiết trai” thanh tịnh cùng với vị ni họ Bạch ở chùa Đông Linh và vài người tin Phật đến cửa Hỗ Độc kính lễ nghinh đón, sóng gió lại yên lặng.
Lúc ấy hai người nổi trên mặt nước liền theo thủy triều vào bờ, càng đến gần mọi người càng nhìn thấy rõ, mới biết đó là tượng đá. Mọi người định đến khiêng, nhưng chưa kịp vận sức thì tượng đã nhẹ nhàng nhấc lên. Họ liền chuyển tượng lên
Tags kính phật niệm phật quán phật
Check Also
PUCL QUYỂN 22 – CHƯƠNG NHẬP ĐẠO
QUYỂN 22 Quyển này có một chương Nhập đạo. 13. CHƯƠNG NHẬP ĐẠO 13.1. LỜI ...