2.2.13. Sức thần thông
Kinh Lâu thán ghi: “Khoảng giữa cõi Dục và Sắc có cung điện thiên ma. Thiên ma này lòng luôn đố kị, giống như cối đá mài mòn công đức. Cung điện này ngang dọc sáu nghìn do-tuần, có bảy lớp tường, cũng trang hoàng như cõi trời dưới. Chư thiên bảy tầng trời từ dưới đến đây có mười năng lực: Một, bay đến vô hạn; hai, bay đi vô hạn; ba, đi vô ngại; bốn, đến vô ngại; năm, thân không có da, gân mạch, máu thịt; sáu, không có các việc đại tiểu tiện bất tịnh; bảy, thân không mỏi mệt; tám, thiên nữ không sinh sản; chín, mắt không nháy; mười, tùy ý muốn thân màu xanh thì liền xanh, muốn vàng thì thành vàng… Lại có mười việc khác: một, bay đi vô tận; hai, trở về vô tận; ba, không trộm cắp; bốn, không nói đẹp xấu của thân; năm, không xâm hại nhau; sáu, răng bằng và đều; bảy, tóc màu tía xanh và bóng mượt, dài tám thước; tám, thân xanh thì tóc cùng xanh; chín, muốn thân trắng thì liền trắng; mười, muốn thân đen thì liền đen”.
Kinh Khởi thể ghi: “Tất cả các vị trời đều có mười năng lực: một, đến đi không giới hạn; hai, đến đi không ngăn ngại; ba, đi không nhanh không chậm: bốn. không có dấu chân; năm, thân không mỏi mệt; sáu, thân không có bóng; bảy, không có đại tiểu tiện: tám. không khạc nhổ; chín, thân sạch sẽ, kì diệu, không có da thịt, gân mạch, xương tủy, máu thịt: mười, tùy ý khiến thân cao thấp, lớn nhỏ, xanh vàng đỏ trắng, tất cả đều đẹp đẽ, đoan nghiêm, ai cũng yêu quí. Hơn nữa, thân trời cao lớn, rắn chắc, răng trắng, bằng đều và khít, tóc xanh ngay thẳng, không rối, mềm mượt và bóng. Thân có ánh sáng, có thần lục, bay dạo trong hư không, mắt nhìn không nháy, chuỗi báu tự nhiên trang sức trên thân, y phục không bao giờ bị nhiễm bẩn”.
Luận Thuận chính lí ghi: “Các trời Tứ Thiên Vương bay lên cõi Đao-lợi thấy chư thiên Ba Mươi Ba, nhưng chư thiên cõi Ba Mươi Ba bay lên không thể thày các trời Dạ-ma… Nhưng nếu các vị trời này có được thần thông từ định lực, hoặc nương theo tha lực thi có thể bay lên thấy các vị trời cõi trên. Nghĩa là chư thiên cõi dưới có thần thông, hoặc được các vị trên tiếp dẫn lên, rồi tùy chỗ thích hợp thì sẽ thấy được các vị trời ấy. Khi các vị trời cõi trên xuống cõi dưới nếu không hóa thành thân trời cõi dưới thì các vị trời cõi dưới không nhìn thấy, vì chẳng phải là cảnh giới của họ; như không cảm thấy có sự xúc chạm. Như vậy khi xuống cõi dưới, trời cõi trên phải hóa thân thì các trời cõi dưới mới nhìn thầy”.
Luận Lập thế A-tì-đàm ghi: “Nếu không có thần thông và tha lực, người Diêm-phù-đề không thể thấy được sắc bên ngoài tường vách ngăn che. Người ba châu khác, nếu không nhờ tha lực cũng không thấy sắc bên ngoài tường vách ngăn che. Chu thiên cõi Dục nếu ở tại cõi của mình mà lìa thần thông và tha lực, không thể thấy được sắc bên ngoài tường vách ngăn che. Nếu lìa quán thì chỉ thấy các vật bên trong phạm vi núi Thiết Vi, không thể thấy sắc bên ngoài núi. Cũng vậy, chư thiên cõi trời Đại Phạn, nếu ở tại cõi cùa mình mà lìa thần thông và tha lực ắt không thể thấy được sắc bên ngoài tường vách ngàn che. Nêu lìa quán thì chỉ thấy các vât trong phạm vi một đại thiên thế giới”.
12.14. Ánh sáng của thân
Luận Trí độ ghi: “Do phúc báo mà thân các vị trời luôn có ánh sáng. Như các vị trời cõi Dục, do đời trước cúng dường đèn đuốc, minh châu cho nguôi trì giới, tu thiên thanh tịnh, nên nay thân luôn phát ánh sáng, không cần mặt trời mặt trăng chiếu soi. Các vị trời cõi Sắc do hành thiền định lìa dục, tu tập Hòa Quang tam-muội, nên thân luôn phát sáng. Ánh sáng này rực rỡ hơn cả ánh sáng mặt trời, mặt trăng và ánh sáng quả báo của trời cõi Dục đã lìa dục. Tóm lại ánh sáng trên thân là do tâm thanh tịnh mà có. Thường quang của Phật chiếu sáng phạm vi một trượng. Ánh sáng của chư thiên, loại lớn nhất, tuy có thể phóng xa vô lượng do-tuần, nhưng khi đến gần ánh sáng một trượng của Đức Phật, thì không hiện được”.
Kinh ưu-bà-di tịnh hạnh ghi: “Như Lai có sáu loại ánh sáng: ánh sáng xanh, ánh sáng vàng, ánh sáng đỏ, ánh sáng trắng, ánh sáng hồng, ánh sáng tía. Ánh sáng chiếu soi rực rỡ”.
Kinh Trường A-hàm ghi: “Phật dạy các tì-kheo:
– Anh sáng đom đóm không bằng ánh sáng đèn, ánh sáng đèn không bằng ánh sáng đuốc, ánh sáng đuốc không bằng ánh sáng của đống lửa, ánh sáng của đổng lửa không bàng, ánh sáng của trời Tứ Thiên Vương. Ánh sáng từ cung điện, y phục và thân của trời Tứ Thiên Vương không bằng ánh sáng của trời Ba Mươi Ba, lần lượt cho đến ánh sáng của trời Sắc Cứu Cánh không bàng ánh sáng của trời Tự Tại, ánh sáng của trời Tự Tại không bằng ánh sáng của Đức Phật. Gom hết tất cả từ ánh sáng đom đóm cho đến ánh sáng của Phật cũng không bàng ánh sáng của khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế. Vì thế, này các tì-kheo! Muốn được ánh sáng, nên cầu ánh sáng khổ-tập-diệt-đạo.
– Thân con người có bảy màu: màu vàng ròng. màu lửa, màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu đen. Chư thiên và a-tu-la cũng có bảy màu như vậy”.
Luận Lập thế A-tì-đàm ghi: “Thân của nguời cõi Diêm-phù có nhiều màu khác nhau. Màu thân của người cõi Phất-ba-đề và Cù-da-di cũng giổng như người cõi Diêm-phù, chỉ trừ màu đen. Thần người cõi Ưất-đan-việt thì đều màu trắng. Thân trời Tứ Thiên Vương và các trời cõi Dục có bổn màu: tía xanh, đỏ, vàng và trắng. Vì sao? Vì lúc mới sinh, các trời này nếu thấy hoa màu tía xanh thì thân sẽ có màu tía xanh, nếu thấy các màu khác thì cũng như vậy”.
2.2.15. Mua bán-đổi chác
Kinh Khởi thế ghi: “Người Diêm-phù-đề dùng tiền bạc, châu báu, lúa gạo, vải vỏc, súc sinh để mua bán đổi chác. Người cõi Cù-đà-di thường dùng trâu dê, châu-ma-ni để mua bán đổi chác. Người Phất-ba-đề thường dùng tiền tài, vải lụa, ngũ cốc, chầu-ma-ni để mua bán đổi chác. Người uất-đan-việt không cò việc mua bán, tất cả các vật đều tự nhiên hiện đền theo ý muốn”. Chư thiên cõi Dục cũng có việc mua bán đổi chác, nhưng chi lấy đó làm vui, không giống thế gian, như đả nói ở trên.
2.2.16. Hôn phối và sinh con
Kinh Khởi thế ghi: “Ba châu thiên hạ đều có cưới gả, nhưng Ưất-đan-việt không có ngã và ngã sở, mỗi khi cành cây rủ xuống thì nam nữ kết hợp, chứ không có việc cưới gả. Loài rồng và chim cánh vàng cũng có cách thức cưới gả đại khái cũng như nhân gian. Chư thiên cõi Dục và Ma vương đều có việc này, như trước đã nói. Từ tầng trời này trở lên thì không có việc hôn nhân cưới gà, vì không phân biệt nam nữ.
Người trong bốn châu thiên hạ, khi hành dục thì hai căn giao tiếp, xuất chất bất tịnh. Loài rồng, chim cánh vàng, a-tu-la và chư thiên cõi Ba Mươi Ba khi hành dục cũng như thế, liền có cảm giác khoái lạc, nhưng chỉ xuất hơi gió, chứ không xuất chất bất tịnh. Chư thiên cõi Dạ-ma vừa nắm tay thì thành dục, chư thiên cõi Đâu-suất vừa nghĩ đến thì thành dục, chư thiên cõi Hóa Lạc nhìn chăm chú vào nhau liền thành dục, chư thiên cõi Tha Hóa Tự Tại nói chuyện với nhau liền thành dục, chư thiên cõi Ma-thân vừa nhìn nhau thì liền thành dục. Lủc ấy đều tất cả đều có cảm giác khoái lạc”.
Luận Lập thế A-tì-đàm ghi: “Khi chư thiên cõi Tứ Thiên Vương muốn có thiên nữ, nếu nhà thiên nữ chấp nhận thì liền đến rước về, lúc ấy hoặc là đổi chác hoặc là mua bán. Chư thiên cõi Dục cũng như vậy. Người bốn châu, chư thiên cõi Tứ Vương, Đao-lợi cần phải giao hợp mới thành dục; chư thiên cõi Dạ-ma ôm nhau liền thành dục; chư thiên cõi Đâu suất nắm tay nhau liên thành dục; chư thiên cõi Hoà Lạc cùng cười nhau liền thành dục; chư thiên cõi Tha Hóa nhìn nhau liền thành dục. Người châu Cù-đà-di thụ dục lạc nhiều gấp đôi người cõi Diêm-phù-đề. Như thế lần lượt đến chư thiên cõi Tha Hóa Tư Tại thụ dục lạc nhiều gấp đôi chư thiên cõi Hóa Lạc. Người bốn châu thiên hạ dùng các món ăn thô, nên có thai nhi dần lớn lên. Thiên nữ cõi Tứ Thiên Vương không dùng các thức ăn thô xấu, nên không có thai nhi dần lớn lên, cũng không có việc sinh con, không có việc ẵm bồng. Các vị trời nam nữ đều có thể sinh con tại đầu gối hoặc tại chỗ ngủ. Nếu đứa con được sinh tại đầu gối hay chỗ ngủ của thiên nữ, thiên nữ khởi ý niệm: ‘Đây là con ta!’, thiên nam cùng nói: ‘Đây là con ta!’. Thế thì vị tiểu thiên này chỉ có một cha một mẹ. Nếu sinh tại đầu gối hay chỗ ngủ của thiên nam, thì vị tiểu thiên này chi có một cha và tất cả thê thiếp của vị thiên nam này là mẹ. Cũng có vị tu hành đến chết mà không khởi dục. Chư thiên cõi Dục có vô lượng vô số lần hành dục trong một đời, nhưng cũng có người tu hành suốt đời vô dục. Tất cả người nữ được khoái lạc bởi sự xúc chạm, tất cả người nam được khoái lạc khi xuất chất bất tịnh, chư thiên cõi Dục khoái lạc khi xuất hơi gió”.
Luận Tán Bà-sa ghi: “Vào kiếp sơ, con người không có nam căn và nữ căn, hình tướng nam nữ giống nhau, về sau, khi con người ăn vị của đất mới hiện nam nữ căn, cũng từ đó có hình tướng nam nữ khác nhau. Chư thiên cõi sắc không dùng đoàn thực, nên không có hai căn này. Có thuyết cho rằng hai căn nam nữ chỉ có tác dụng ở cõi Dục, chứ ở cõi Săc không có. Vì thế chư thiên cõi sắc không có mũi và lưỡi. Có người hỏi: ‘Chư thiên cõi sắc là nam hay nừ? Đáp: ‘Đều là nam, tuy không có nam căn, nhưng đầy đủ các tướng trượng phu khác; vì đã lìa nhiễm, nên gọi là nam”.
2.2.17. Thức ăn-thức uống
Kinh Khởi thế ghi: “Tất cả chúng sinh nhờ bốn loại thức ăn mà giữ gìn được bốn đại: Một, đoàn thực và vi tế thực; hai xúc thực; ba, ý tư thực; bốn, thức thực. Như các loại cơm, đậu, thịt… mà người Diêm-phù-đề ăn là đoàn thực; chà xát, tắm rửa, thoa dầu… là vi tế thực. Người trong bốn thiên hạ và chư thiên cõi Dục đều dùng đoàn thực và vi tế thực. Chư thiên cõi Sắc và Vô sắc lấy thiền duyệt và pháp hỉ làm thức ăn, không có đoàn thực và vi tế thực.
Hỏi: Những loài chúng sinh nào lấy sự xúc chạm làm thức ăn?
Đáp: Những loài chúng sinh sinh từ trứng đều lấy sự xúc chạm làm thức ăn.
Hỏi: Những loài chúng sinh nào lấy ý tư làm thức ăn?
Đáp: Những loài chúng sinh nào nhờ ý tư thám tâm để nuôi lớn các căn, như cá, ba ba, rắn, cóc nhái, già-la-cù-đà… và những chúng sinh dùng ý thức tư duy để tăng trưởng các căn, kéo dài thọ mạng, đêu dùng ý tư làm thức án.
Hỏi: Những loài chúng sinh nào lấy thức làm thức ăn?
Đáp: Đó là các chúng sinh ở địa ngục và chư thiên cõi Thức Vô Biên xứ. Các chúng sinh này đêu nhờ thức giữ gìn thọ mạng.
Chư thiên cõi Dục đều dùng vị Tu-đà, buổi sáng ăn một nắm, buổi chiều ăn một nắm, thức ăn vừa vào bụng liền chuyển khắp thân. Vị Tu-đà này tự nhiên sinh tại các vườn rừng, ao hồ trên cõi trời. Chư thiên cõi sắc từ Sơ thiền đến Biến Tịnh thì dùng hỉ làm thức ăn. Chư thiên cõi Vô sắc thì dùng ý nghiệp làm thức ăn.
Hỏi: Thức ăn thức uống ấy như thế nào?
Đáp: Như kinh dạy: “Chư thiên cõi Dục tùy sang hèn mà được thức ăn ngon dở khác nhau. Nếu vị trời nào nhiều phúc, tự có đầy đủ thức ăn uống theo ý muốn, nào là cam lộ đầy li, thức ăn ngon tự đến. Vị trời thiếu phúc, tuy cũng có thức ăn uống, nhưng không vừa ý, và vì không no đủ, nên vẫn xuống cõi Diêm-phù kiếm thức ăn”. Kinh lại ghi: “Như chư thiên cùng dùng một loại bát báu để đựng cơm, nếu ai có phúc bậc thượng thì thấy cơm màu trắng, ai phúc bậc trung thì thấy cơm màu vàng, ai phúc bậc hạ thì thấy cơm màu đỏ”.
Chư thiên cõi sắc dùng thiền duyệt làm thức ăn. Nêu nói về bốn loại thức ăn thì cõi này chỉ có xúc thực.
Tags chương tam giới cõi dục cõi sắc giàu nghèo hôn phối mua bán sang hèn thần thông thọ lượng tống táng trụ xứ y phục
Check Also
PUCL QUYỂN 7 – CHƯƠNG LỤC ĐẠO (tt)
QUYỂN 7 Quyển này tiếp theo chương Lục đạo. 4. CHƯƠNG LỤC ĐẠO (tt) 4.6. ...