Home / KINH - LUẬN / Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật / TẬP MỘT KINH MA HA BNBLM / KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT – QUYỂN THỨ SÁU

KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT – QUYỂN THỨ SÁU

BẢ tự môn, vì nhập vào các pháp, bả tự bất khả đắc vậy.
ĐÀ tự môn, vì nhập vào các pháp, tính bất khả đắc vậy.
XA tự môn, vì nhập vào các pháp, định bất khả đắc vậy.
KHƯ tự môn, vì nhập vào các pháp, hư không bất khả đắc vậy.
XOA tự môn, vì nhập vào các pháp, diệt tận bất khả đắc vậy.
ĐÁ tự môn, vì nhập vào các pháp, hữu bất khả đắc vậy.
NHÃ tự môn, vì nhập vào các pháp, trí bất khả đắc vậy.
THA tự môn, vì nhập vào các pháp, tha tự bất khả đắc vậy.
BÀ tự môn, vì nhập vào các pháp, phá hoại bất khả đắc vậy.
XA tự môn, vì nhập vào các pháp, dục bất khả đắc vậy, ngũ ấm như ảnh cũng bất khả đắc vậy.
MA tự môn, vì nhập vào các pháp, ma tự bất khả đắc vậy.
HỎA tự môn, vì nhập vào các pháp, kêu gọi bất khả đắc vậy.
TA tự môn, vì nhập vào các pháp, ta tự bất khả đắc vậy.
NOA tự môn, vì nhập vào các pháp, chẳng đến, chẳng đi, chẳng đứng, chẳng ngồi, chẳng nằm vậy.
PHẢ tự mồn, vì nhập vào các pháp, biên bờ bất khả đắc vậy.
CA tự môn, vì nhập vào các pháp, tụ họp bất khả đắc vậy.
SAI tự môn, vì nhập vào các pháp, sai tự bất khả đắc vậy.
GIÀ tự môn, vì nhập vào các pháp, hiện hành bất khả đắc vậy.
TRA tự môn, vì nhập vào các pháp, cong vạy bất khả đắc vậy.
ĐỒ tự môn, vì nhập vào các pháp, chỗ tột biên bờ nên chẳng diệt, chẳng sinh vậy.
Quá chữ Đồ thời không chữ có thể tuyên thuyết. Tại sao vậy? Vì không còn có chữ vậy.
Những chữ vô ngại, vô danh, cũng diệt, chẳng nói được, chẳng chỉ được, chẳng thấy được, chẳng biên chép được.
Này Tu Bồ Đề! Phải biết tất cả pháp như hư không. Đây gọi là đà la ni môn chính là nghĩa của chữ A.
Nếu đại Bồ Tát, nơi những tự môn ấn, A tự ấn này, hoặc nghe, hoặc thọ, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc trì, hoặc giảng nói cho người khác, thời biết rằng sẽ được hai mươi công đức.
Những gì là hai mươi? Được nhớ biết dai. Được tâm kiên cổ. Được chỉ thú của kinh. Được trí huệ. Được lạc thuyết vô ngại. Dễ được những môn đà la ni khác. Được tâm không nghi hối. Được nghe lành chẳng mừng, nghe dữ chẳng giận. Được chẳng cao, chẳng hạ, an trụ tâm không tăng, không giảm. Được thiện xảo, biết lời nói của chúng sinh. Được khéo phân biệt ngũ ấm, thập nhị nhập, thập bát giới, thập nhị nhân duyên, tứ duyên và tứ đế. Được khéo phân biệt những căn tính lợi độn của các chúng sinh. Được khéo biết tâm niệm của kẻ khác. Được khéo phân biệt ngày, tháng, năm, mùa. Được khéo phân biệt thiên nhĩ thông, Được khéo phân biệt túc mạng thông. Được khéo phân biệt sinh tử thông. Được có thể khéo tuyên thuyết thị xứ, phi xứ. Được khéo biết thân oai nghi qua, lại, ngồi, đứng.
Những đà la ni môn, tự môn, a tự môn này gọi là đại Bồ Tát Đại thừa, vì bất khả đắc vậy”.

PHẨM PHÁT THÚ THỨ HAI MƯƠI

Đức Phật bảo Ngài Tu Bồ Đề: “ông hỏi thế nào là đại Bồ Tát Đại thừa phát thú?
Này Tu Bồ Đề! Nếu đại Bồ Tát lúc thật hành sáu ba la mật, từ một địa đến một địa, đây gọi là đại Bồ Tát Đại thừa phát thú”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát từ một địa đến một địa?”.
Đức Phật nói: “Đại Bồ Tát biết tất cả pháp không có tướng lai khứ, cũng không có pháp hoặc lai khứ, hoặc đến, chẳng đến, vì các pháp tướng bất diệt vậy.
Đại Bồ Tát đối với các địa chẳng niệm, chẳng tư duy mà tu tập trị địa nghiệp, cũng chẳng thấy địa.
Những gì là trị địa nghiệp?
Lúc an trụ bậc sơ địa, đại Bồ Tát thật hành mười việc.
Một là thâm tâm kiên cố, vì dụng vô sở đắc vậy.
Hai là đối với tất cả chúng sinh tâm bình đẳng, vì chúng sinh bất khả đắc vậy.
Ba là bố thí cho người, vì thọ giả bất khả đắc vậy.
Bốn là thân cận thiện tri thức, cũng chẳng tự cao vậy.
Năm là cầu pháp, vì tất cả pháp bất khả đắc vậy.
Sáu là thường xuất gia, vì gia bất khả đắc vậy. Bảy là mến thích Phật thân, vì tướng hảo bất khả đắc vậy.
Tám là diễn nói giáo pháp xuất thế vì các pháp chẳng phân biệt bất khả đắc vậy.
Chính là phá kiêu mạn, vì pháp sinh huệ bất khả đắc vậy.
Mười là thiệt ngữ, vì những ngữ ngôn bất khả đắc vậy.
Trên đây là mười sự trị địa nghiệp của đại Bồ Tát an trụ trong bậc sư địa tu tập.
Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát an trụ trong bậc nhị địa thường niệm tám pháp.
Những gì là tám?
Một là giới thanh tịnh. Hai là biết ơn và báo ơn. Ba an trụ nhẫn nhục lực. Bốn là thọ hoan hỉ. Năm là chẳng rời bỏ tất cả chúng sinh. Sáu là nhập đại bi tâm. Bảy là tin kính và thưa hỏi nơi thầy. Tám là cần cầu các môn ba la mật.
Đây là đại Bồ Tát an trụ trong bậc nhị địa đầy đủ tám pháp.
Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát an trụ trong bực tam địa thật hành năm pháp.
– Những gì là năm?
Một là học vấn nhiều không nhàm đủ. Hai là thanh tịnh pháp thí cũng chẳng tự cao. Ba là thanh tịnh Phật độ cũng chẳng tự cao. Bốn là nhận chịu vô lượng sự cần khổ thế gian mà vẫn chẳng nhàm. Năm là an trụ nơi tàm quý.
Đây là năm pháp mà đại Bồ Tát an trụ trong bậc tam địa phải đầy đủ.
Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát an trụ trong bậc tứ địa phải thọ hành chẳng bỏ mười pháp.
Những gì là mười?
Một là chẳng bỏ chỗ ở A lan nhã. Hai là thiểu dục. Ba là tri túc. Bốn là chẳng bỏ công đức đầu đà. Năm là chẳng bỏ giới. Sáu là tránh ghét các dục nhiễm. Bảy là nhàm tâm thế gian, thuận tâm Niết Bàn. Tám là xả bỏ tất cả sở hữu. Chín là tâm chẳng trầm một. Mười là chẳng tiếc tất cả vật.
Đây là mười pháp mà đại Bồ Tát an trụ trong bậc tứ địa chẳng bỏ.
Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát an trụ trong bậc ngũ địa xa rời mười hai pháp.
Những gì là mười hai?
Một là xa lìa sự thân cận hàng bạch y. Hai là xa lìa hàng Tỳ Kheo Ni. Ba là xa lìa sự tham tiếc nhà người khác. Bốn là xa lìa sự đàm thuyết vô ích. Năm là xa lìa sự giận hờn. Sáu là xa lìa sự tự tôn đại. Bảy là xa lìa sự khinh miệt người khác. Tám là xa lìa mười nghiệp đạo bất thiện. Chín là xa lìa đại mạn. Mười là xa lìa tự dụng. Mười một là xá lìa điên đảo. Mười hai là xa lìa thám sân si.
Đấy là mườỉ hai điều mà đại Bồ Tát an trụ trong bậc ngũ địa xa lìa.
Này Tu Bồ Đề Đại Bồ Tát an trụ trong bậc lục địa nên đầy đủ sáu pháp, chính là sáu ba la mật.
Bậc lục địa lại có sáu pháp chẳng nên làm. Những gì là sáu? Một là chẳng móng tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật. Hai là chẳng có ý lo ngại khi bố thí. Ba là bị đòi hỏi cầu xin, không có lòng trốn tránh. Bốn là những vật sở hữu đều đem bố thí. Năm là sau khi bố thí xong, không có lòng hối tiếc. Sáu là chẳng nghi ngờ pháp thâm diệu.
Đây là sáu pháp phải đầy đủ và sáu pháp phải xa lìa của đại Bồ Tát an trụ trong bậc lục địa.
Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát an trụ trong bậc thất địa phải xa lìa hai mươi pháp chẳng nên chẳng phải.
Những gì là hai mươi?
Một là chẳng chấp ngã. Hai là chẳng chấp chúng sinh. Ba là chằng chấp thọ giả. Bốn là chẳng chấp chúng sinh số nhẫn đến tri giả, kiến giả. Năm là chằng chấp đoạn kiến. Sáu là chẳng chấp thường kiến. Bảy là chẳng nên khởi tướng dạng. Tám là chằng nên khởi nhân duyên kiến. Chín là chằng chấp danh sắc.
Mười là chẳng chấp ngũ ấm. Mười một là chẳng chấp thập nhị nhập. Mười hai là chẳng chấp thập bát giới. Mười ba là chẳng chấp tam giới. Mười bốn là chẳng khởi tâm chấp trước. Mười lăm là chẳng khởi chỗ mong cầu. Mười sáu là chẳng khởi chỗ y chỉ. Mười bảy là chẳng chấp trước nơi sự thấy là phải nương nơi Phật. Mười tám là chẳng chấp trước nơi sự thấy là phải nương nơi Pháp. Mười chín là chẳng chấp trước nơi sự thấy là phải nương nơi Tăng. Hai mươi là chẳng chấp trước nơi sự thấy là phải nương nơi giới. Đây là hai mươi điều chẳng nên chấp trước.
Lại có hai mươi pháp mà bực thánh địa phải đầy đủ.
Những gì là hai mươi?
Một là đầy đủ không. Hai là chứng vô tướng. Ba là biết vô tác. Bốn là ba phần thanh tịnh. Năm là ở trong chúng sính đầy đủ trí từ bi. Sáu là chẳng niệm tưởng tất cả chúng sinh. Bảy là bình đẳng xem tất cả pháp, nơi trong đây cũng chẳng chấp trước. Tám là biết thiệt tướng của các pháp, cũng chẳng niệm tưởng sự này. Chín là vô sinh pháp nhẫn. Mười là vô sinh trí. Mười một là tuyên thuyết các pháp nhất tướng. Mười hai là phá tướng phân biệt. Mười ba là chuyển ức tưởng? Mười bốn là chuyển kiến. Mười lăm là chuyển phiền não. Mười sáu là đồng huệ đồng đẳng. Mười bảy là điều ý. Mười tám là tâm tịch diệt. Mười chín là vô ngại trí. Hai mươi là chẳng nhiễm ái.
Trên đây là hai mươi điều chẳng nên chấp trước và hai mươi điều phải đầy đủ của bậc thất địa đại Bồ Tát.
Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát an trụ trong bát địa phải đầy đủ năm pháp.

About namcuulong

Check Also

KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT – QUYỂN THỨ BẢY

KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT – QUYỂN THỨ BẢY Hán dịch: Pháp ...

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *