Home / KINH - LUẬN / Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật / TẬP MỘT KINH MA HA BNBLM / KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT – QUYỂN THỨ CHÍN

KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT – QUYỂN THỨ CHÍN

Nhẫn đến nhất thiết chủng trí cũng như vậy.
Này Kiều Thi Ca! Trong tẫt cả pháp chẳng hiệp, chẳng tan là thần lực của Như Lai, vì dùng pháp vô sở thọ vậy.
Như lời Kiều Thi Ca nói, đại Bồ Tát Bát nhã ba la mật nên cầu ở chỗ nào?
Này Kiều Thi Ca! Chẳng nên ở trong sắc hay rơi ngoài sắc mà cầu Bát nhã ba la mật. Chẳng nên ở trong thọ, tưởng, hành, thức hay rời ngoài thọ, tưởng, hành, thức mà cầu Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy? Bát nhã ba la mật này và sắc, thọ, tưởng, hành, thức, tất cả pháp đây đều chẳng hiệp, chẳng tan, không sắc, không hình, không đối, một tướng duy nhất đó là vô tướng.
Nhẫn đến chẳng nên ở trong nhất thiết chủng trí mà cầu Bát nhã ba la mật, cũng chẳng nên rời ngoài nhất thiết chủng trí mà cầu Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy? Bát nhã ba la mật đây và nhất thiết chủng trí, tất cả pháp này đều chẳng hiệp, chẳng tan, không sắc, không hình, không đối, một tướng duy nhất là vô tướng.
Tại sao vậy? Bát nhã ba la mật chẳng phải sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng phải rời ngoài sắc, thọ, tưởng hành, thức. Nhẫn đến chẳng phải nhất thiết chủng trí, cũng chẳng phải rời ngoài nhất thiết chủng trí.
Bát nhã ba la mật chẳng phải sắc như, cũng chẳng phải rời ngoài sắc như. Nhẫn đến chẳng phải nhất thiết chủng trí như, cũng chẳng phải rời ngoài nhất thiết chủng trí như.
Bát nhã ba la mật chẳng phải sắc pháp, cũng chẳng phải rời ngoài sắc pháp.
Nhẫn đến chẳng phải nhất thiết chủng trí pháp; cũng chẳng phải rời ngoài nhất thiết chủng trí pháp.
Tại sao vậy? Này Kiều Thi Ca! Tất cả pháp này đều vô sở hữu bất khả đắc.
Vì vô sở hữu bất khả đắc, nên Bát nhã ba la mật chẳng phải sắc cũng chẳng phải rời sắc, nhẫn đến cũng chẳng phải nhất thiết chủng trí cũng chằng phải rời nhất thiết chủng trí. Chằng phải sắc như cũng chẳng phải rời sắc như, nhẫn đến cũng chẳng phải nhất thiết chủng trí như cũng chẳng phải rời nhất thiết chùng trí như. Chẳng phải sắc pháp cũng chẳng phải rời sắc pháp, nhẫn đến cũng chẳng phải nhất thiết chủng trí pháp cũng chẳng phải rời nhất thiết chủng trí pháp”.
Thiên Đế nói: “Ma ha ba la mật này là đại Bồ Tát Bát nhã ba la mật.
Vô lượng ba la mật, vô biên ba la mật là đại Bồ Tát Bát nhã ba la mật.
Chư Tu Đà Hoàn và quả Tu Đà Hoàn nhẫn đến chư A La Hán và quả A La Hán, chư Bích Chi Phật và đạo Bích Chi Phật, chư đại Bồ Tát đều từ trong Bát nhã ba la mật này mà học thành.
Có thể thành tựu chúng sinh, thanh tịnh phật độ, chứng Vô thượng Bồ đề đều từ trong Bát nhã ba la mật này mà học thành”.
Ngài Tu Bồ Đề nói: “Đúng như vậy. Này Kiều Thi Ca! Ma ha ba la mật này là đại Bồ Tát Bát nhã ba la mật. Vô lượng ba la mật, vô biên ba la mật là đại Bồ Tát Bát nhã ba la mật.
Cũng từ trong Bát nhã ba la mật này mà học thành quả Tư Đà Hoàn đến thành Vô thượng Bồ đề.
Này Kiều Thi Ca! Vì sắc rộng lớn nên Bát nhã ba la mật cũng rộng lớn.
Tại sao vậy?
Sắc tiền tế, hậu tế và trung tế đều bất khả đắc.
Thọ, tưởng, hành, thức rộng lớn nên Bát nhã ba la mật cũng rộng lớn, vì thọ, tưởng, hành, thức, tiền tế, hậu tế và trung tế đều bất khả đắc.
Nhẫn đến nhất thiết chủng trí cũng như vậy.
Do nhân duyên này nên Ma ha ba la mật này là đại Bồ Tát Bát nhã ba la mật.
Này Kiều Thi Ca! Vì sắc vô lượng nên Bát nhã ba la mật vô lượng, vì sắc lượng bất khả đắc vậy.
Như hư không lượng bất khả đắc, cũng vậy sắc lượng bất khả đắc.
Hư không vô lượng nên sắc vô lượng. Vì sắc vô lượng nên Bát nhã ba la mật vô lượng.
Nhẫn đến vì nhất thiết chùng trí vô lượng nên Bát nhã ba la mật vô lượng.
Tại sao vậy? Vì nhất thiết chủng trí vô lượng bất khả đắc.
Như hư không lượng bất khả đắc, cũng vậy nhất thiết chủng trí lượng bất khả đắc.
Hư không vô lượng nên nhất thiết chủng trí cũng vô lượng.
Nhất thiết chùng trí vô lượng nên Bát nhã ba la mật cũng vô lượng.
Do nhân duyên này nên đại Bồ Tát Bát nhã ba la mật vô lượng.
Này Kiều Thi Ca! sắc vô biên nên đại Bồ Tát Bát nhã ba la mật vô biên.
Tại sao vậy? sắc, tiền tế, hậu tế, trung tế đều bất khả đắc.
Nhẫn đến nhất thiết chủng trí vô biên nên Bát nhã ba la mật vô biên. Vì nhất thiết chủng trí, tiền tế, hậu tế, trung tế đều bất khả đắc vậy.
Do nhân duyên này nên Bát nhã ba la mật vô biên.
Lại này Kiều Thỉ Ca! Vì duyên nơi vô biên nên Bát nhã ba la mật vô biên”.
Thiên Đế hỏi: “Thế nào là duyên nơi vô biên nên Bát nhã ba la mật vô biên?”.
Ngài Tu Bồ Đề nói: “Vì duyên tất cả pháp vô biên nên Bát nhã ba la mật vô biên”.
Thiên Đế hỏi: “Thế nào duyên tất cả pháp vô biên nên Bát nhã ba la mật vô biên?”.
Ngài Tu Bồ Đề nói: “Vì duyên vô biên pháp tính nên Bát nhã ba la mật vô biên.
Lại này Kiều Thi Ca! Vì duyên vô biên pháp như nên Bát nhã ba la mật vô biên”.
Thiên Đế hỏi: “Thế nào duyên vô biên pháp như nên Bát nhã ba la mật vô biên?”.
Ngài Tu Bồ Đề nói: “Vì pháp như vô biên nên duyên cũng vô biên. Vì duyên vô biên nên pháp như cũng vô biên”.
Do nhân duyên này nên đại Bồ Tát Bát nhã ba la mật cũng vô biên.
Lại này Kiều Thi Ca! Vì chúng sinh vô biên nên Bát nhã ba la mật vô biên”.
Thiên Đế hỏi: “Thế nào chúng sinh vô biên nên Bát nhã ba la mật vô biên?”.
Ngài Tu Bồ Đề nói: “Này Kiều Thi Ca! Theo ý Ngài thời những pháp gì gọi là chúng sinh?”.
Thiên Đế nói: “Không có pháp gì gọi là chúng sinh. Vì giả danh nên gọi là chúng sinh. Danh tự ấy vốn không có pháp cũng không có chỗ đến. Chỉ gượng đặt tên thôi”.
Ngài Tu Bồ Đề nói: “Ý Ngài nghĩ thế nào. Trong Bát nhã ba la mật này nói chúng sinh có thật chăng?”.
Thiên Đế nói: “Không có thật”.
Ngài Tu Bồ Đề nói: “Nếu trong Bát nhã ba la mật chẳng nói thiệt có, thời chúng sinh vẽ biên cũng bất khả đắc.
Này Kiều Thi Ca! Ý Ngài nghĩ thế nào? Chư Phật trong hằng sa kiếp nói chúng sinh và danh tự chúng sinh, vả có pháp chúng sinh có sinh, có diệt chăng?”.
Thiên Đế nói: “Không có. Vì bổn lai chúng sinh thường thanh tịnh vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề nói: “Này Kiều Thi Ca! Do nhân duyên này, vì chúng sinh vô biên nên biết Bát nhã ba la mật cũng vô biên”.

PHẨM TAM THÁN THỨ BA MƯƠI

Bấy giờ chư Thiên Vương và chư Thiên, chư Phạm Vương và chư Phạm Thiên, chư Thần Tiên và chư Thiên Nữ đồng thời ba phen ca ngợi rằng: “Hay thay! Hay thay! Pháp của Đại Đức Tu Bồ Đề tuyên thuyết đều do ân lực nhân duyên của đức Phật xuất thế gian ban bố giáo pháp này.
Nếu có đại Bồ Tát nào thật hành Bát nhã ba la mật này chẳng xa rời, thời chúng tôi xem vị đó như đức Phật.
Tại sao vậy? Vì trong Bát nhã ba la mật này dầu không có pháp nào được có, từ sắc đến nhất thiết chủng trí, nhưng có giáo pháp Tam thừa, tức là Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa và Phật thừa”.

About namcuulong

Check Also

KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT – QUYỂN THỨ SÁU

KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT – QUYỂN THỨ SÁU Hán dịch: Pháp ...

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *